Thứ Hai, 30 tháng 3, 2009

CHÂN DUNG CÁC NHÀ KHOA HỌC GẮN BÓ CUỘC ĐỜI MÌNH VỚI LÚA LAI

KS. Nguyễn Chí Công
1. CHA ĐẺ LÚA LAI: GS. VIÊN LONG BÌNH (YUAN LONGPING)
- Sinh năm 1931 trong một gia đình Nông dân nghèo. Tốt nghiệp Viện Nông nghiệp Tây Nam năm 1953, sau đó bắt đầu sự nghiệp giảng dạy tại trường Nông nghiệp ở Anjiang thuộc tình Human (Hồ Nam – Trung Quốc). Kể từ đó ông hy sinh cuộc đời mình cho nghiên cứu và phát triển giống lúa
- Năm 1964 ông tình cờ phát hiện cây lúa có cường lực ưu thế lai trong tự nhiên, qua nhiều năm nghiên cứu ông đã thành công khi tạo ra được giống lúa lai ba dòng đầu tiên năm 1973
- Với sự phát minh ra lúa lai của ông, Trung Quốc đã giải quyết được vấn đề thiếu hụt lương thực, đảm bảo an ninh lương thực. Chính phát minh của ông đã chứng minh cho những tiên đoán của các nhà chính trị phương Tây vào những năm 1990 là không chính xác - họ cho rằng sự thiếu hụt lương thực xảy ra ở nước đông dân nhất thế giới là Trung Quốc sẽ kích ngòi cho một thảm hoạ chết đói dây chuyền trên thế giới
- Tháng 05/2000 tại Shenzhen thành lập một công ty hạt giống ưu thế lai mang tên ông là “Longping Hight-Tech”. Ông được hưởng 5% lợi nhuận từ việc kinh doanh hạt lai
- Năm 2001, tài sản ông đạt 12 triệu USD, một trong những người giàu nhất Trung Quốc. Ông không màng đến tiền bạc, chỉ tập trung nghiên cứu. Tuy nhiên ông nói có tiền sẽ tạo điều kiện thuận lợi có các nghiên cứu trong tương lai
- Năm 2004, Ông được vinh dự nhận chung giải thưởng Lương Thực Thế Giới (World Food Prize) với TS. Monty Jones. Giải thưởng này được TS. Norman Borlaug - giải Nobel hoà bình năm 1970 - đề xuất năm 1986


2. PGS.TS NGUYỄN THỊ TRÂM

- Sinh ngày 14-03-1944 tại Tiên Tân – Duy Tiên – Hà Nam
- Bà là tiến sĩ Di truyền - Chọn Giống cây trồng. Được công nhận Phó giáo sư năm 1996 và nhà giáo ưu tú năm 2000
- Bà được trao tặng bằng tác giả sáng chế giống lúa giống lúa năm 1984; giải thưởng Kovalepskaia năm 2000; giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam (VIFOTEC) trong năm 1998 và 2004
- Được nhà nước phong tặng Huân chương Lao động hạng 3 năm 2000; giải thưởng nhà nước năm 2005. Gần đây là bằng sở hữu trí tuệ giống lúa lai mới TH3-3 năm 2007
- Liên hệ: Viện SH Nông Nghiệp – ĐH Nông Nghiệp I – TT Trâu Quỳ - Gia Lâm – Hà Nội.
+ ĐT: CQ: 0438768260 – NR: 0438688199 – DĐ: 0915588795
+ Email:
nttramnn1@gmail.com

3. PSG. TS NGUYỄN VĂN HOAN
- Sinh ngày 05-01-1951 tại Thụy Vân – Lâm Thao – Phú Thọ
- Ông tốt nghiệp đại học năm 1976 chuyên ngành Di truyền Giống tại Bungari, bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ năm 1994; được phong hàm Phó giáo sư năm 2001
- Ông đã nhận được nhiều bằng khen của Bộ NN và PTNN năm 1995. Bằng khen của Bộ GD và ĐT về đề tài giống lúa ĐH60 năm 1996. Giải thưởng VIFOTEC năm 1997 - Hiện ông là Trưởng bộ môn Di truyền - Giống Khoa Nông Học, kiêm GĐ Viện nghiên cứu lúa của ĐH Nông Nghiệp I – Hà Nội

Quy trình bón phân NPK cho lúa HT ở ĐBSCL

LUAGAO - Bước vào vụ lúa HT bà con nông dân lại quan tâm đến việc làm đất, chọn giống và bón phân. Vừa qua, tại Đồng Tháp, Trung tâm KNKN quốc gia và Cty CP VTTH và Phân bón Hóa Sinh đã tổ chức hội thảo tại chỗ về “Quy trình bón phân NPK cho lúa HT”.
Tại cuộc hội thảo này bà con nông dân đặt ra nhiều câu hỏi từ thực tế SX đã được các nhà khoa học trực tiếp trả lời một cách dễ hiểu, dễ áp dụng vào đồng ruộng.
Về chuẩn bị làm đất: Phải cày ải làm cho đất thoáng, để tiêu diệt được một số dịch bệnh trong đất. Làm đất lúa phải được cày sâu, bừa kỹ cho đất nhuyễn, mặt ruộng phải phẳng để hạn chế cỏ dại và phèn và thuận lợi khi điều tiết nước. Đất phải được cày sâu để tạo điều kiện cho rễ phát triển, tăng nguồn dự trữ dinh dưỡng, có lợi cho các hoạt động của vi sinh vật vùng rễ phân hủy các chất hữu cơ khó phân hủy, tăng chất dinh dưỡng cho lúa. Đất phải được làm sạch cỏ dại, rơm rạ.
Về giống: Nông dân Nguyễn Văn Khâm (xã Hòa Tân, huyện Châu Thành – Đồng Tháp) hỏi: Ở vụ lúa HT cần chọn giống nào tốt nhất để gieo sạ? Câu hỏi này được GS.TS Mai Thành Phụng trả lời như sau: Bà con thấy giống tốt ở chỗ khác chưa chắc là giống tốt của mình. Khi người ta bán giống họ thường nói về ưu điểm mà không nói về khuyết điểm. Đề nghị bà con khi mua giống cần xem xét giống lúa thật kỹ, hỏi về ưu và khuyết điểm của giống lúa đó. Ví dụ, giống lúa này giấu bông hay khoe bông, thời gian sinh trưởng bao lâu? Chúng ta cần tìm hiểu triệt để ưu và khuyết điểm của giống lúa đó.
Những giống phổ biến nhất vụ HT này là: OM6073, OM5199, OM5451, OM6072, OM5464, OM5472, OM5453, OM4088, OM2474. Đây là các giống lúa có năng suất cao, phẩm chất hạt tốt, khả năng kháng sâu bệnh cao, tính kháng rầy tốt, tính ổn định và thích nghi cao với những điều kiện thâm canh khác nhau. Lưu ý: Khi sạ khô, hạt giống đã được ngâm và no nước, lượng hạt giống sạ là từ 110 – 120 kg/ha. Sạ ướt, hạt giống được ngâm ủ nảy mầm. Lượng hạt giống từ 80-100 kg/ha.
Về bón phân: Nông dân Ngô Văn Xứa ở xã Hòa Tân, huyện Châu Thành – Đồng Tháp hỏi: Bón phân đón đòng lúa từ 40-45 ngày tuổi bón 100 kg phân Kali + 50 kg phân Urê/ha, bón như vậy có thừa Kali không? Có ảnh hưởng đến năng suất không?
GSTS. Mai Thành Phụng (Trung tâm KNKN quốc gia) trả lời: Đất trồng lúa ở ĐBSCL là thích hợp nhất cho cây lúa nước phát triển. Bà con làm lúa, khâu bón phân được xem là nghệ thuật, khi lúa trong giai đoạn vàng xanh nên bón phân Kali hoặc phân chuyên dụng của Cty Hóa Sinh. Vì lúc này bón Kali hoặc phân chuyên dụng giúp lúa cứng cây, khỏe, tránh đổ ngã. Bón phân cân đối và hợp lý cho lúa rất quan trọng, giúp cho cây sinh trưởng tốt, tăng khả năng chống chịu sâu bệnh và tăng năng suất.
Vụ HT có thể áp dụng công thức 80-90 N – 50-60 P2O5 – 30-40 K2O.
Bón đợt 1: Từ 7- 10 ngày sau sạ, dùng HS-997, lượng bón 150-200 kg/ha. Bón đợt 1 sớm, bón HS-997 có nhiều đạm và lân, giai đoạn này cần bón nhiều đạm và lân vì cây lúa HT mọc trong điều kiện còn gốc rạ của lúa ĐX, trời nắng nóng dễ xì phèn, dễ ngộ độc do đó cần bón nặng giai đoạn đầu để giúp cây lúa phát triển bộ rễ, đẻ nhiều nhánh, tăng năng suất về sau. Trên đất phèn bón nhiều lân sẽ giúp giảm độ độc trên đất phèn, tăng khả năng chống chịu của cây. Bón tốt giai đoạn đầu là biện pháp quan trọng để đạt năng suất cao.
Bón đợt 2: Từ 18 đến 22 ngày sau sạ, sử dụng HS-998, lượng bón từ 150-200 kg/ha. Cây cần nhiều đạm và lân để đẻ nhiều nhánh hữu hiệu, cây phát triển bộ lá, cần bón tập trung để cây phát triển nhánh tập trung.
Bón đợt 3: Từ 40-45 ngày sau sạ, sử dụng HS-999 , lượng bón 100-120 kg/ha. Thời kỳ tượng đồng nên cần bón nhiều kali. Sử dụng HS-999 giúp lúa tập trung trổ bông, bông to và chắc ít bị lép, tăng năng suất và chất lượng gạo.
KS. LOAN

Thứ Năm, 26 tháng 3, 2009

Xã hội hóa sản xuất giống lúa ở Nam bộ

LUAGAO - Với diện tích 4,2 triệu ha gieo trồng lúa ở Nam bộ, hàng năm yêu cầu 500.000 tấn giống xác nhận hay 120.000 ha để sản xuất giống. Nhưng các công ty giống lớn ở Nam bộ như Cty CP Giống cây trồng miền Nam, Cty CP BVTV An Giang, Cty Giống cây trồng Đồng Tháp... chỉ đáp ứng 50.000 tấn giống lúa hàng năm.
Như vậy thực tế chỉ đảm bảo 10 - 15% lượng giống cung cấp cho sản xuất; tư nhân sản xuất lúa giống đảm bảo chất lượng khoảng 10%; như vậy trên 70% hạt giống sản xuất vẫn chưa được cung ứng theo tiêu chuẩn quốc gia, do đó muốn đảm bảo lượng giống lúa xác nhận phải tổ chức lại sản xuất theo hướng: “Xã hội hóa sản xuất lúa giống” ở Nam bộ.
Trước năm 2000, tỷ lệ sử dụng giống xác nhận của người dân chỉ đạt dưới 10%, nhưng đến năm 2006 - 2007 đã tăng đến 25 - 27% ở các tỉnh Nam bộ. Ý thức của người dân đã có những bước chuyển đáng kể về sử dụng giống xác nhận. Tuy vậy, so với nhiều nước tiên tiến trong khu vực, mức độ sử dụng giống xác nhận ở các tỉnh Nam bộ vẫn còn thấp. Vì vậy bước đầu tiên là làm cho người sản xuất phải thay đổi tư duy về giống cây trồng. Người dân có ý thức càng cao về vai trò quan trọng của giống cây trồng thì càng có động lực để thúc đẩy công tác sản xuất giống, kích cầu cung ứng giống và do đó hệ thống giống từ khâu nghiên cứu, sản xuất và lưu thông giống mới có điều kiện phát triển.
Với vai trò chủ đạo của Nhà nước mà trực tiếp là Bộ NN-PTNT lâu nay đã đề ra nhiều chủ trương chính sách từ khâu nghiên cứu giống, khảo nghiệm và công nhận giống cây trồng. Các khâu kiểm tra, kiểm định giống từ cấp trung ương đến địa phương. Đặc biệt trong sản xuất giống, Bộ NN-PTNT đã quy định các cấp nhân giống siêu nguyên chủng, nguyên chủng và cấp xác nhận. Bên cạnh đó để tạo điều kiện trong công tác lưu giữ bảo tồn, khai thác nguồn gen và giống cây trồng địa phương; chọn tạo giống cây trồng mới; sản xuất và trao đổi giống cây trồng cộng đồng hoặc lưu thông trên thị trường Bộ NN-PTNT đã ban hành Quy định 35/2008/QĐ-BNN năm 2008 về quản lý sản xuất giống cây trồng nông hộ.
Quy định này đã xác định rõ nông hộ có quyền tham gia vào các công tác chọn tạo, sản xuất để sử dụng, hoặc trao đổi trên thị trường. Quyết định này rất quan trọng, là một trong các cơ sở pháp lý để phát triển ngành giống theo hướng “xã hội hóa”. Trong thực tế, dưới sự hướng dẫn của các nhà khoa học, các dự án bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học cộng đồng ở ĐBSCL, nhiều nông dân đã được tập huấn kỹ năng lai tạo và chọn lọc giống lúa. Một số nông dân giỏi đã tự lai tạo chọn lọc giống lúa tốt phục vụ trực tiếp cho sản xuất như trường hợp giống CLV.1 của nông dân Kim Suôi ở Sóc Trăng, giống HĐ 4 của nông dân Nguyễn Văn Tính ở Kiên Giang và nhiều nông dân ở Tiền Giang, An Giang, Trà Vinh cũng đã lai tạo thành công giống lúa cho kết quả tốt ở các thử nghiệm tại một số tỉnh ĐBSCL. Đây là một hướng tốt cần khuyến khích và quản lý các giống chọn tạo từ nguồn nông dân theo đúng quy định của Bộ NN-PTNT.
Hiện nay có “mạng lưới” sản xuất giống ở các địa phương, từ tổ giống đến HTX. Các tổ chức này nhiều nơi còn mang tính tự phát, vì vậy cần củng cố, nâng chất lượng hoạt động của các tổ nhân giống lúa cũ, thành lập thêm các tổ nhân giống lúa mới, đặt dưới sự quản lý của HTX nông nghiệp. Hoặc các tổ nhân giống này đặt dưới sự hướng dẫn của câu lạc bộ nhân giống, câu lạc bộ khuyến nông ở những nơi chưa có HTX. Đặc biệt có sự quan tâm của các ngành các cấp của địa phương hỗ trợ về mặt kỹ thuật, phương tiện, điều kiện nhân giống với số lượng giống lớn theo yêu cầu của từng vùng sinh thái có chất lượng cao. Sự phát triển của mạng lưới sản xuất giống địa phương từ khâu sản xuất, chế biến cung ứng giống, từng bước nâng dần diện tích sử dụng giống có chất lượng, nhằm góp phần cải thiện năng suất, cải thiện chất lượng lúa thương phẩm trên toàn vùng.
Để mở rộng mạng lưới sản xuất giống ở địa phương, trước hết các cơ sở kinh doanh giống phải đăng ký, tập huấn và được cung cấp các thông tin quan trọng về quản lý giống cây trồng. Các Sở NN-PTNT thành lập bộ phận quản lý về giống, củng cố và nâng cấp các phòng kiểm định, kiểm nghiệm với đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Các Sở NN-PTNT chịu trách nhiệm cấp giấy chứng nhận hành nghề về giống ở địa phương. UBND cấp tỉnh ban hành những quy định quản lý nhà nước về giống trên địa bàn của tỉnh dựa trên cơ sở quyết định của Nhà nước về quản lý giống cây trồng.
"Trong sản xuất lúa nhiều năm qua, bà con nông dân thường chú ý đến giống lúa mà ít quan tâm đến chất lượng hạt giống. Trong thực tế sản xuất ở Nam bộ, đa phần người dân sử dụng giống tự sản xuất hoặc trao đổi giữa các nông dân với nhau, thậm chí nhiều người còn dùng lúa ăn để làm giống.
Vì vậy hậu quả giống bị lẫn tạp, thoái hóa đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, chất lượng lúa gạo, đồng thời giảm giá trị đối với người tiêu dùng và xuất khẩu."
Vai trò của Sở NN-PTNT, Trung tâm khuyến nông, Trung tâm giống của các tỉnh rất lớn trong chiến lược xã hội hóa công tác giống. Vai trò, nhiệm vụ của các tổ chức này thể hiện từ khâu quy hoạch cơ cấu giống của địa phương, tổ chức mạng lưới khảo nghiệm, sản xuất thử, sản xuất giống, hỗ trợ giống cho nông dân, trình diễn, hội thảo, xây dựng mô hình sản xuất giống nông hộ, tọa đàm, phát hành tài liệu, thông tin qua báo đài... Nhờ đó giải quyết được đầu ra cho những nơi sản xuất giống và kích thích sự phát triển của hệ thống giống. Vấn đề “liên kết 4 nhà” đối với xã hội hóa giống cũng cần phải đặt ra thật căn cơ dựa trên nguyên tắc lợi ích và trách nhiệm của các bên, dựa trên các hợp đồng kinh tế - kỹ thuật... Các doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo, giống lúa phải vào cuộc ngay từ những bước ban đầu: Quy hoạch cơ cấu giống, hỗ trợ giống cho nông dân, đầu tư kỹ thuật sản xuất lúa giống, dự án cụ thể dưới sự giám sát của các tổ chức nhà nước và được hỗ trợ về mặt kỹ thuật từ phía các nhà khoa học. Để liên kết “giữa các nhà” thật bền vững phải dựa vào những cơ chế liên kết theo kinh tế thị trường và phải có sự hỗ trợ, giám sát của Nhà nước.
So với Thái Lan trong sản xuất lúa gạo, Việt Nam có ưu thế về năng suất, sản lượng, giá thành nhưng lại yếu thế về chất lượng lúa gạo. Nếu vấn đề “xã hội hóa sản xuất và sử dụng giống xác nhận” thành công thì trong cuộc cạnh tranh trên thị trường gạo quốc tế, Việt Nam sẽ có những bước đột phá ở thị trường gạo chất lượng cao...
PV

Đài Loan sản xuất gạo 7 màu

LUAGAO - Nhằm cạnh tranh với các nhà nhập khẩu gạo từ nước ngoài với giá rẻ, các nhà nghiên cứu Đài Loan đang phát triển loại lúa mới, hứa hẹn sẽ không chỉ ngon miệng mà ngon... cả mắt.

Nhợt nhạt, nhạt nhẽo và chán ngắt là những gì nhiều người Đài Loan nói về các loại gạo truyền thống của họ. Các nhà nghiên cứu ở hòn đảo này dành 4 năm để tạo ra giống lúa mới với 7 màu sắc: tía, đen, xanh, vàng, đỏ, cam và trắng.

Các nhà sản xuất gạo của Đài Loan đang phải cạnh tranh khốc liệt với hàng nhập từ nước ngoài vì thế các nhà nghiên cứu hy vọng loại gạo đầy màu sắc này sẽ hút người tiêu dùng trở lại với đồ của địa phương.
Lo Tze-yen, một nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu nông nghiệp Hualien, cho biết: "Màu được chiết xuất từ rau quả tự nhiên, giàu dinh dưỡng và vitamin".

Mỗi màu sắc tương ứng với nguồn bổ sung dưỡng chất khác nhau. Gạo vàng có chứa chiết xuất từ sâm Canana và được cho là có thể giảm stress và tăng sức đề kháng; gạo xanh được cho là có thể giảm huyết áp.
Tuy nhiên, người tiêu dùng được khuyến cáo là không nên vo gạo nếu không muốn mất màu. Loại thực phẩm đầy màu sắc này dự kiến được tung ra thị trường vào đầu năm tới.
Nhưng người tiêu dùng có thể sẽ khó ăn loại cơm mới này bởi gạo vàng với vị sâm có giá tới 6 USD mỗi kg, gấp 5 lần gạo thường.
Lê Minh

Thứ Tư, 25 tháng 3, 2009

Giải Pháp Thâm Canh Tăng Năng Suất & Chất Lượng LÚA NGẮN NGÀY VỤ HÈ THU 2009 – 2010

KS. Lan Hương - Công ty Mai Xuân TPHCM
Cố vấn: ThS. Lê Thanh Tùng - Chuyên viên Cục Trồng Trọt tại TP HCM
A. CÔNG VIỆC CHUẨN BỊ CHO CÁC VỤ LÚA 2009
1. Thời vụ cho vụ Lúa đã được nhất trí cao của các cơ quan chức năng cần phải cách vụ (giữa 2 vụ có thời gian cách ly khoảng 1 tháng để vệ sinh đồng ruộng, cày ải phơi đất, cách ly 1 vòng đời của Rầy nâu). Lịch gieo vụ theo từng vùng tùy theo điều kiện nước và né Rầy. Bố trí thời vụ phải dựa trên nguyên tắc chung là “Tập trung, đồng loạt từng vùng, từng cánh đồng, thời gian giãn cách giữa hai vụ lúa tối thiểu 3 tuần, xuống giống theo dự báo Rầy nâu di trú và Rầy nâu tại chỗ của cơ quan BVTV tại địa phương”.

2. Tiếp tục sản xuất theo hướng “3 giảm 3 tăng”: giảm lượng giống sạ xuống còn từ 80-120kg/ha, sử dụng giống xác nhận, bón phân cân đối, áp dụng chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) là rất cần thiết.

3. Nguyên tắc chung sử dụng giống Lúa là ở mỗi địa phương chỉ nên sử dụng 4-5 giống chủ lực, 2-3 giống bổ sung (có thể thay thế giống chủ lực khi cần thiết) nhưng một giống chủ lực chiếm diện tích không quá 15-20% diện tích gieo trồng trong vùng. Sử dụng giống chống chịu (giống kháng) Rầy nâu, nếu trồng các giống như Jasmine, VD 20…cần thăm đồng thường xuyên, quản lý sâu bệnh, dinh dưỡng chặt chẽ ngay từ đầu vụ, đẩy mạnh áp dụng 3 giảm 3 tăng trên các giống Lúa có thời gian sinh trưởng trung bình cho năng suất, chất lượng cao, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt như ĐH 85, ĐV, Mã Lâm 48, Q 23, Q 5…

4. Tiếp tục phát huy hiệu quả các hệ thống bẫy đèn để dự báo chính xác về Rầy nâu.

5. Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hợp lý trong việc phòng chống Rầy nâu và các dịch bệnh khác theo nguyên tắc 4 đúng.

B. GIẢI PHÁP THÂM CANH
I. Giai đoạn mạ
Từ 1-20 ngày sau sạ (ngày sau sạ: nss)
1. Đặc điểm
Cây nhỏ, mẫn cảm với dịch hại, cần bổ sung dinh dưỡng sớm.
2. Mục đích thâm canh
Tạo cho cây khỏe để chuẩn bị đẻ nhánh.
3. Thâm canh
- Dùng hạt giống tốt, ngâm ủ giúp Lúa nẩy mầm đều. Xử lý hạt giống với nước nóng 540C (3 sôi 2 lạnh) góp phần phá niên trạng và diệt một phần mầm bệnh hại bám trên hạt Lúa, xử lý với dung dịch nước muối 15% (15kg muối ăn pha trong 100 lít nước) có tác dụng rất tốt loại bỏ đáng kể mầm bệnh Lúa von, các hạt lép lửng, hạt cỏ gạo.
- Làm đất kỹ, bằng phằng.
- Sạ với mật độ hợp lý (80-120kg/ha). Trên thực tế bà con thường sạ dày nhưng việc này không cần thiết vừa tốn giống vừa tốn dinh dưỡng mà cây lại phát triển không tốt và dễ bị nhiễm các loại dịch hại.
II. Giai đoạn đẻ nhánh
Từ 21- 45 nss
1. Đặc điểm
Cây đẻ nhánh, ra lá, tăng chiều cao nhanh. Nhu cầu dinh dưỡng cần khá cao (nhất là đạm, lân). Thời kỳ này sẽ quyết định tới năng suất Lúa.
2. Mục đích thâm canh
Có được số bông thích hợp, bông đều và bông to - sáng.
3. Thâm canh
a. Bón phân đợt 1 (10-12 nss)
- Nên bón phân đợt 1 sớm (7-10 nss) nhằm giúp cây lúa phát triển tốt ngay từ đầu.
- Lượng bón cho 1 ha: 100 – 150 kg NPK 20-20-15 + 40-50 kg Urê
- Đất phèn TB: 100kg DAP + 30kg Urê/ha.
- Đất xám: 100kg DAP + 30kg Urê/ha.
Bà con có thể giảm bớt lượng phân DAP và thay bằng các loại NPK hoặc phân tưới rễ MX-HÒA NƯỚC TƯỚI 1 vừa tiết kiệm đồng thời hiệu quả nhanh.
b. Phun trên lá: dùng Food-MX1 hoặc NUTRIMIX-Đặc Hiệu (Chuyên dùng cho Lúa) phun ngay sau khi xử lý thuốc cỏ xong (khoảng 10-14 nss).
c. Canh tác
- Phòng trừ cỏ thật tốt.
- Giữ mực nước thích hợp (ngập 5cm so với mặt ruộng).
- Tỉa dặm sớm (15-18 nss) để cho ruộng đồng đều.
d. Chú ý
Không bón phân lai rai vì sẽ làm tăng chồi vô hiệu. Bón phân đợt 2 sớm (18-22 nss) và tháo khô nước khi ruộng đã kín hàng (35-40 nss) là biện pháp khống chế chồi vô hiệu rất có kết quả. Ruộng nào quá trũng, cần bón đợt 2 nhẹ tay, tránh Lúa quá tốt sẽ lốp đổ.
e. Bón phân đợt 2 (18-22 nss)
- Bón phân, kết hợp làm cỏ, sụt bùn, vùi phân vào đất, bón phân khi có nước trong ruộng Lúa (ngập so mặt ruộng khoảng 5cm).
- Lượng bón cho 1 ha:
- Đất phèn: 40-50 kg DAP + 40-50 kg Urê
- Đất xám: 40-50 kg DAP + 50-60 kg Urê
- Đất phù sa: 50-70kg DAP + 20kg Urê/ ha và thêm 0-30kg DAP để bón vá áo riêng.
- Đất phèn TB: 50kg DAP + 50kg Urê/ha và thêm 0-50kg DAP để bón vá áo riêng.
- Đất xám: 50-70kg DAP + 20 kg Urê/ha và thêm 0-30kg DAP để bón vá áo riêng.

Chú ý: Đợt 2 phải bón “vá áo” sửa ruộng cho đều, dùng 998, R2, JF2, Yara L2…bón thêm vào chỗ ruộng xấu, chỗ cấy dặm, gò cao… và kết hợp NUTRIMIX-Đặc Hiệu hoặc Food-MX1 phun vào chỗ cần vá áo.
III. Giai đoạn làm đòng
Từ 46-60 nss
1. Đặc điểm
Rất mẫn cảm với nhiệt độ, nước và đạm (thời kỳ mẫn cảm đạm). Thời kỳ này quyết định bông to hay nhỏ và số hạt/bông.
2. Thâm canh
Bảo vệ lá đòng và hai lá dưới xanh bền bằng cách phòng trừ sâu bệnh như bệnh khô vằn, vàng lá, đạo ôn cổ bông, sâu cuốn lá,…
a. Phun trên lá
- Dùng MAGIÊPHOS phun 1 lần lúc Lúa 47 – 49 nss để đón đòng, chống đổ lốp.
- Dùng thêm MAGIÊPHOS 1 lần nữa trước trổ 7-10 ngày => giúp trổ đòng đồng loạt.
b. Bón phân đợt 3
- Lượng phân bón cho 1 ha
Đất phèn: 40-50 kg Urê + 30-40 kg Kali
Đất xám: 40-50 kg Urê + 30-40 kg Kali
Không bón dư đạm, bón đủ kali và nên bón đón đòng (50 nss)
Lưu ý: Tuyệt đối không được bón dư đạm vào đợt này, hại gấp nhiều lần. Bón hơi thiếu, mức tối đa là 50kg Urê/ha. Cần xịt thêm phân bón lá MAGIÊPHOS hoặc NUTRIMIX-Đặc Hiệu nếu thấy cây hơi yếu.
IV. Giai đoạn trổ
Từ 61-85 nss
1. Đặc điểm
Cây tích lũy chất khô về hạt. Màu đổi từ xanh sang vàng. Trọng lượng hạt tăng dần và ổn định tới khi chín hoàn toàn.
2. Mục đích thâm canh
Giúp cây trổ đòng tốt để quyết định số hạt chắc/bông, giúp to – sáng hạt và chống rụng hạt.
3. Thâm canh (phun trên lá)
- Dùng HCR-Đặc Hiệu phun 1 lần lúc Lúa 72-73 nss tức 2-3 ngày trước trổ thúc cây trổ đòng đồng loạt. Nếu muốn hạt to nhanh thêm nữa thì sau đó tiếp tục phun 1 lần HCR trong giai đoạn “cong trái me”. Lưu ý phun nhiều nước (khoảng 400-600 lít nước/ha, lượng nước nhiều giúp phân bón qua lá thấm đều và dễ hấp thu vào lá).
V. Giai đoạn chín
- Dùng Food-MX4 phun 1 lần lúc Lúa 90 nss => giúp hạt chắc, mẩy, bóng, màu vàng sáng và chín đồng loạt.
Chú ý:
- Giữ ruộng đủ nước tới chín sáp (trước thu hoạch 7 ngày).
- Thu hoạch sớm (85-90% độ chín) sẽ cho năng suất và chất lượng cao nhất.
* Chú ý : thời gian phun xịt theo khuyến cáo như trên phù hợp với giống lúa có thời gian phát triển trung bình từ 100-105 ngày. Tùy theo giống có thể chủ động thời gian phun xịt cho phù hợp với thực tế.

C. PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH
I. Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM)
1. Định nghĩa:
Quản lý dịch hại tổng hợp trên cơ sở sinh học dựa chủ yếu vào các yếu tố kềm chế lẫn nhau trong tự nhiên (còn gọi là cân bằng sinh thái) như thiên địch, thời tiết…và tìm kiếm những biện pháp nào ít tác động xấu tới con người và môi trường. IPM chỉ sử dụng thuốc khi thấy thực sự cần thiết. Thật lý tưởng nếu chương trình quản lý dịch hại xem xét tất cả các hoạt động và đánh giá khả năng tương tác trong các biện pháp phòng trừ khác nhau như giống kháng bệnh, kỹ thuật canh tác, thời tiết, những dịch hại khác và hoa màu được bảo vệ.
2. Nội dung IPM
- Trồng cây khỏe: đây là nguyên tắc quan trọng nhất, cần áp dụng một cách hài hòa các biện pháp canh tác để cho cây khỏe, chống chịu được sâu bệnh và thời tiết bất thuận.
- Bảo vệ thiên địch: trong thiên nhiên có nhiều sinh vật có ích (thiên địch), chúng diệt sâu bệnh hại. Do đó, cần tạo môi trường thuận lợi cho chúng phát triển, chính chúng là yếu tố hạn chế dịch hại.
- Thăm đồng thường xuyên: cần điều tra hệ sinh thái trên đồng ruộng mỗi tuần hay vài ngày một lần để phát hiện những yếu tố bất lợi cho cây trồng, xác định tỷ lệ giữa thiên địch và sâu hại, từ đó quyết định biện pháp xử lý để hạn chế thiệt hại do dịch hại gây ra giúp cây trồng phát triển tốt.
- Nông dân trở thành chuyên gia: nông dân được huấn luyện để trở thành những chuyên gia, có khả năng nhận dạng được sâu bệnh và xử lý kịp thời những bất lợi trên đồng ruộng bằng các biện pháp kỹ thuật thích hợp nhất, đồng thời cũng là người huấn luyện và truyền đạt lại cho những nông dân khác để cùng thực hiện chương trình quản lý dịch hại trên phạm vi rộng hơn.
3. Các biện pháp kỹ thuật trong IPM
3.1. Sử dụng giống kháng: là một trong những biện pháp quan trọng, dễ áp dụng, ít tốn kém, hiệu quả cao. Trên cùng cánh đồng không nên trồng một giống chiếm 60% diện tích để giữ tính kháng của giống được lâu.
3.2. Biện pháp canh tác gồm: chuẩn bị đất, bố trí thời vụ, mật độ gieo sạ, phân bón hợp lý, chăm sóc vệ sinh đồng ruộng tốt. Quản lý nước theo quy trình mới, dùng nước ém cỏ.
3.3. Biện pháp sinh học: là biện pháp mang lại hiệu quả kinh tế cao, không gây ảnh hưởng tới môi trường và sức khỏe con người.
- Tạo môi trường thuận lợi cho một số loại côn trùng, nấm bệnh có ích trong thiên nhiên (thiên địch) để chúng khống chế một số sâu bệnh hại như không sử dụng thuốc trừ sâu sớm và loại thuốc có độ độc hại cao.
- Nhân nuôi một số loại ong ký sinh có ích để tiêu diệt sâu hại.
3.4. Biện pháp vật lý: bẫy đèn, trực tiếp bắt sâu, quơ chà tre gạt sâu phao, trực tiếp đào hang, dặm cù bắt chuột….
3.5. Biện pháp hóa học: đây là biện pháp cuối cùng để ngăn chặn thiệt hại do sâu bệnh gây ra khi mật độ hoặc tỷ lệ quá cao.
- Ưu điểm: dễ sử dụng, hiệu quả diệt sâu bệnh cao và nhanh, dùng khống chế và dập dịch.
- Khuyết điểm: chi phí cao, gây độc cho người, diệt thiên địch, phá vỡ cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường…
Chú ý: khi sử dụng thuốc hóa học cần tuân thủ theo nguyên tắc 4 đúng:
- Đúng thuốc: xác định đúng đối tượng gây hại (sâu, bệnh gì). Chọn đúng loại thuốc có hiệu quả cao nhất, hiệu quả chọn lọc cho từng đối tượng sâu bệnh, không nên chọn loại thuốc phổ rộng.
- Đúng liều lượng – nồng độ: pha đúng nồng độ khuyến cáo của nhà sản xuất, phun đủ lượng nước tùy theo đối tượng, đảm bảo 320-400 lít/ha.
- Đúng lúc: phun vào lúc sức chống chịu của sâu kém nhất ví dụ như Rầy phun khi tuổi 2-3, chỉ phun thuốc khi tới ngưỡng kinh tế cần phòng trừ.
- Đúng cách: cần phun đúng vị trí sâu bệnh trú ẩn.
II. MỘT SỐ DỊCH HẠI CHÍNH
1. Quản lý rầy nâu
Theo phương châm áp dụng các biện pháp tổng hợp (dùng giống kháng, tránh - né bằng gieo sạ đồng lọat, canh tác theo “3 tăng - 3 giảm”, dùng thuốc hóa học theo nguyên tắc “4 đúng”, tiêu hủy ruộng, cây bệnh khi cần thiết.), xem sổ tay hướng dẫn phòng trừ rầy nâu truyền bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá hại lúa của Bộ NN & PTNT.
Giai đoạn lúa dưới 40 ngày tuổi, khi mật độ rầy đạt khoảng 8 - 10 con /tép, rầy nâu đang tuổi 2 – 3 dùng thuốc phòng trị bằng các loại thuốc chống lột xác :
Điều quan trọng trong quản lý rầy nâu là phải thường xuyên thăm đồng, để xác định đúng thời điểm phun xịt thuốc. Khi phun phải theo nguyên tắc 4 đúng, chú ý phun đều và gần gốc lúa.
2. Sâu cuốn lá : Thời điểm xuất hiện 20 nss, đặc biệt quan trọng khi cây lúa bị hại ở giai đọan làm đòng- trổ bông. Không cần thiết sử dụng thuốc trong 40 ngày sau sạ vì cây lúa có khả năng phục hồi.
Từ lúa đứng cái - trỗ : mật số SCL > 10 con/m2
Thuốc phòng trị sử dụng luân phiên một trong các loại thuốc như sau :
+ Alika: 10ml/bình 16 lít x 2 bình cho 1 000m2
+ Virtako 40WG: 50-60g/ha : 3g/bình 16 lít x 2 bình cho 1000m2
+ Angun 5WDG: 10g/bình 16 lít x 2 bình cho 1000m2
Phun khi sâu còn nhỏ (tuổi 1-2) hoặc 5-6 ngày sau khi có bướm rộ trên ruộng.
3. Sâu phao đục bẹ : gây hại quan trọng ở giai đoạn đâm chồi tích cực (20-40 nss), xử lý thuốc khi thấy có 3-5 chồi bị hại/m2 hoặc 7 ngày sau khi có bướm rộ với một trong các loại thuốc :
+ Proclaim 1.9EC: 10-20ml/bình 16 lít x 2 bình cho 1 000m2
+ Virtako 40WG: 50-60g/ha : 3g/bình 16 lít x 2 bình cho 1000m2
+ Angun 5WDG 10g bình 16 lít x 2 bình cho 1000m2
+ Kinalux 25EC : 50ml/bình 16 lít x 2 bình cho 1000m2
+ KinaGold 23EC 40ml/bình 16 lít x 2 bình cho 1000m2
Lưu ý: khi phun nhớ tháo cạn nước để tăng hiệu quả của thuốc, chú ý phun kỹ ở những vùng có sâu gây hại nặng.
4. Nhện gié: gây hại quan trọng ở giai đoạn đẻ nhánh à làm đòng, trổ. Triệu chứng bên ngoài là những vết nám bẹ màu nâu, tương tự như vết cạo gió. Bệnh nặng có thể làm bông lúa bị lép, lem hoặc trổ nghẹn. Phun trị khi thấy có 3-5 vết nám bẹ trên 1 m2 bằng các loại thuốc :
+ Angun 5WDG 10g bình 16 lít x 2 bình cho 1000m2
+ Kinalux 25EC : 50ml/bình 16 lít x 2 bình cho 1000m2
+ KinaGold 23EC 40ml/bình 16 lít x 2 bình cho 1000m2
II. Quản lý bệnh hại
1. Bệnh Lúa von: đặc biệt nhiễm nặng với những giống Lúa thơm. Phòng trị bằng cách xử lý giống khi ngâm ủ.
Xử lý với dung dịch nước muối 15% có tác dụng rất tốt loại bỏ đáng kể mầm bệnh lúa von, các hạt lép lửng, hạt cỏ gạo.
Cách làm như sau:
- Lúa giống ngâm nước sạch 24-36 giờ (lúa đã no nước), pha dung dịch nước muối 15% (15kg muối ăn pha trong 100 lít nước), khuấy mạnh cho tan hết muối.
- Một thể tích lúa giống cần 3 thể tích dung dịch muối đã pha.
- Xử lý nhanh trong vòng 10-15 phút (loại tất cả hạt lép, lửng, hạt cỏ) sau đó đem lúa giống đãi với nước sạch nhiều lần cho hết muối mới đem đi ủ.
Để hạn chế nấm bệnh lúa von tấn công từ đất, giai đoạn mạ đến đẻ nhánh tránh để ruộng bị khô. Ở những vùng đã trồng giống nhiễm nhiều vụ, nên khuyến cáo bà con nông dân thay đổi giống khác (1 vụ) để cách ly nguồn bệnh.
2. Bệnh đạo ôn
- Bệnh Đạo ôn xuất hiện quanh năm đặc biệt trong vụ ĐX. Bệnh gây hại trên lá, thân, cổ bông và gié Lúa.
- Trên lá: vết bệnh có hình thoi, xung quanh viền màu nâu, ở giữa có màu xám trắng, khi bệnh nặng các vết bệnh nối liền nhau thành vết lớn và ruộng lúa bị bệnh nặng lúa bị cháy rụi thành từng đám.
- Trên thân: bắt đầu là chấm nhỏ màu đen về sau lớn dần bao quanh thân, làm cho thân thắt lại, thường làm thối cổ lá và đốt rất dễ gãy.
- Trên bông: Thường xuất hiện ở cổ bông, bệnh nặng sẽ gây bông bị lép hoàn toàn.
Khi trong vùng có bệnh đạo ôn đang phát triển nên phun ngừa ở giai đoạn bón thúc chồi, hoặc khi thấy lá lúa có vết bệnh chấm kim, ở giai đoạn này sử dụng Fuan 40EC, liều lượng 1-1,2 lít/ha. Có thể phun lập lại lần thứ 2 vào 7 ngày sau khi thấy bệnh phát triển lại.
Phun phòng trị bệnh đạo ôn cổ bông 2 lần ở giai đoạn 7 ngày trước trổ và 7 ngày sau trổ, sử dụng Filia 525SE. Liều lượng pha 25ml/bình 16 lít, phun 2 bình cho 1000m2
3. Bệnh đốm vằn
Phòng trị bệnh khi thấy có 5% chồi bị bệnh, thuốc sử dụng:
+ Anvil 5 SC: 50ml/bình 16 lít x 2 bình/1000m2
+ Bonanza 100DD: 20ml/bình 16 lít x 2 bình/1000m2
+ Nevo 330EC: 15ml/bình 16 lít x 2 bình/1000m2
+ Validan 5DD : 50ml/bình 16 lít x 2 bình/1000m2
* Chú ý phun kỹ những vùng bị bệnh
4. Bệnh vàng lá chín sớm
Bệnh thường tấn công vào giai đoạn làm đòng đến trổ chín. Lá đòng bị vàng lụi sớm ảnh hưởng đến khả năng quang hợp nuôi hạt của cây. Bệnh có thể phát triển nặng trên chân ruộng bón thừa đạm.
Phòng trị:
o Bón phân cân đối, không bón thừa đạm
o Ngừa bệnh giai đoạn làm đòng (40 – 55 nss) 1 trong các loại thuốc:
Ridomil Gold 68: 50g/bình 16 lít, phun 2 bình/1.000 m2
Nevo 330EC: 15ml/bình 16 lít x 2 bình/1.000m2
Tilt super: 15ml/ bình 16 lít, phun 2 bình/1.000 m2
Topan: 25-50g/ bình 16 lít, phun 2 bình/1.000 m2
5. Bệnh lem lép hạt : phun ngừa bệnh 2 lần vào 7 ngày trước trổ và 7 ngày sau khi lúa trổ đều bằng Tilt Super 300EC hoặc Amistar top liều lượng 15ml/bình 16 lít, phun 2 bình 1000m2.
6. Bệnh do Vi Khuẩn: tấn công trên lá, thân và hạt.
Giai đoạn đẻ nhánh- đòng trổ: nếu thấy bệnh xuất hiện, rút nước và rải vôi: liều lượng 15-20kg/1000m2 (trộn vôi với 1 thúng tro trấu đã thấm nước).
Hoặc phòng trị bằng nước vôi: Pha 2kg vôi/bình 16 lít (gạn lấy phần trong) phun 2 bình 1000m2.
Giai đoạn trổ: nếu thấy bệnh xuất hiện cũng dùng nước vôi với liều lượng như trên. Có thể lập lại lần 2 cách lần trước 7 ngày nếu thấy bệnh chưa dứt hẳn.
7. Bệnh vàng lùn
a. Tác nhân: bệnh vàng lùn là một dạng triệu chứng do virus gây bễnh lúa cỏ có tên RGSV (Rice Grassy Stunt Virus) gây ra.
b. Nhận dạng
- Màu sắc lá của cây Lúa bệnh chuyển từ xanh nhạt à vàng nhạt à vàng cam à vàng khô.
- Vị trí lá bị vàng: lá dưới bị vàng trước, lần lượt đến các lá bên trên, vết vàng trên lá lan từ chóp lá lần vào bẹ lá.
- Đặc điểm của lá Lúa bệnh: lá có khuynh hướng xòe ngang.
Bệnh làm giảm chiều cao chồi Lúa bệnh và giảm số chồi của bụi Lúa mắc bệnh.
- Ruộng Lúa bệnh ngả màu vàng, chiều cao cây không đồng đều.
c. Cách lan truyền bệnh
- Rầy nâu là môi giới truyền Virus gây bệnh cho cây Lúa và chúng có khả năng truyền Virus cho tới khi chết.
- Cây Lúa bị bệnh mang Virus cho tới khi gặt, Lúa chét cũng có thể nhiễm bệnh. Khi bị bệnh ở giai đoạn Lúa non, Lúa sẽ không trổ đòng, năng suất giảm nghiêm trọng hoặc mất trắng.
- Rầy nâu chích hút cây Lúa bệnh sau 5-10 phút là mang mầm bệnh trong cơ thể và khoảng 10 ngày sau là có thể lan truyền Virus gây bệnh sang cây Lúa khỏe khác.
- Virus gây bệnh không truyền qua trứng Rầy, đất, nước, không khí.
- Rầy nâu cánh dài mang Virus phát tán đi rất xa nên phạm vi lây lan của bệnh rộng, Rầy cánh ngắn mang virus lây lan trong phạm vi hẹp vì không thể di chuyển xa được.
- Hiện nay chưa có thuốc đặc trị virus gây bệnh.
8. Bệnh lùn xoắn lá
a. Tác nhân: do virus có tên RRSV (Rice Ragged Stunt Virus) gây ra.
b. Nhận dạng
- Cây bị lùn, màu lá xanh đậm.
- Rìa lá bị rách và gợn sóng, dọc theo gân lá có bướu.
- Chóp lá bị biến dạng và xoăn tít lại.
- Lúa không trổ được, bị nghẹn đòng, hạt lép.
c. Cách lan truyền bệnh
Bệnh lùn xoắn lá có cách lan truyền bệnh như bệnh vàng lùn. Có trường hợp trên một cây Lúa đồng thời xuất hiện cả 2 triệu chứng vàng lùn và lùn xoắn lá.
9. Bệnh Lúa cỏ
a. Tác nhân: do virus có tên RGSV (Rice Grassy Stunt Virus) gây ra.
b. Nhận dạng
- Cây bị lùn, mọc nhiều chồi, bộ rễ bình thường.
- Lá ngắn, hẹp, cứng màu xanh vàng hoặc vàng cam.
- Lá non có nhiều đốm gỉ sắt hoặc màu vàng đỏ.
c. Cách lan truyền bệnh
Bệnh lúa cỏ có cách lan truyền bệnh như bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá.
10. Phòng trừ bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá
a. Phòng bệnh
Bệnh VL-LXL, bệnh Lúa cỏ gây hại cho cây Lúa cho đến nay vẫn chưa có thuốc đặc trị, do đó biện pháp đầu tiên là phòng bệnh, bao gồm:
- Thực hiện triệt để các biện pháp phòng trừ Rầy nâu.
- Áp dụng các biện pháp canh tác đồng bộ để tạo cây Lúa khỏe nhất trong giai đoạn trước trổ để gia tăng sức đề kháng của cây. Phun bổ sung phân bón lá hữu cơ sinh học NUTRIMIX cũng góp phần giúp cây Lúa khỏe hơn, kháng bệnh mạnh hơn.
b. Tiêu hủy nguồn bệnh trên đồng ruộng cụ thể như sau:
- Giai đoạn Lúa còn non (0-40 nss): nếu ruộng Lúa bị nhiễm nặng (trên 10%) thì phải tiêu hủy ngay bằng cách cày trục cả ruộng nhằm diệt mầm bệnh, trước khi cày vùi phải phun thuốc trừ Rầy nâu để tránh phát tán truyền bệnh sang ruộng khác. Nếu bị nhiễm nhẹ (rải rác, dưới 10% số khóm bị bệnh) thì phải nhổ bỏ những cây bệnh và vùi xuống ruộng, không bỏ tràn lan trên bờ.
- Giai đoạn Lúa sau gieo sạ 40 ngày trở đi: thường xuyên thăm đồng và nhổ, vùi bỏ bụi Lúa bệnh, đồng thời nếu phát hiện Rầy cám có mật độ trên 3 con/dảnh thì phải phun thuốc trừ Rầy nâu theo “nguyên tắc 4 đúng”. Nếu ruộng Lúa bị nhiễm quá nặng thì tiêu hủy bằng cách cày, trục cả ruộng; trước khi tiêu hủy phải phun thuốc trừ Rầy nâu để tránh phát tán truyền bệnh sang ruộng khác.
11. Phân biệt bệnh VL-LXL với các triệu chứng vàng lá do ngộ độ hữu cơ
Triệu chứng đặc trưng của vàng lá do ngộ độc hữu cơ là khi nhổ cây Lúa lên thì thấy đất có màu rất đen và bộ rễ bị thối đen. Do rễ không hút được dưỡng chất nên bộ lá ngả sang màu vàng, từ chóp lá xuống và từ mép lá vào.
Cách phân biệt giữa bệnh vàng lùn với ngộ độc hữu cơ là dựa vào màu sắc rễ Lúa. Cây Lúa bị bệnh vàng lùn còn tươi có rễ màu trắng, còn Lúa ngộ độc hữu cơ có màu đen, mùi hôi.
Ruộng Lúa thường bị ngộ độc hữu cơ khi: ruộng trũng, bị ngập nước liên tục, khoảng thời gian từ khi làm đất tới khi gieo sạ rất ngắn (chưa tới 15-20 ngày), hoặc làm đất sơ sài, cày vùi rơm rạ rồi gieo sạ liền, ruộng Lúa gần các ao cá hay chuồng trại chăn nuôi bị tháo nước xuống ruộng thường xuyên.
Vàng lùn do ngộ độc hữu cơ là dạng bệnh sinh lý vì vậy cần áp dụng những biện pháp sau:
- Thay nước ruộng bằng cách tháo nước ra, bơm nước mới vào từ 1-2 lần, phơi mặt ruộng.
- Ngưng bón phân đạm, tăng cường bón phân lân.
- Khi cây Lúa phục hồi ra lá xanh, có rễ màu trắng thì tiến hành bón phân đạm, DAP và chăm sóc tiếp như bình thường.
D. THU HOẠCH, BẢO QUẢN VÀ TỰ ĐỂ GIỐNG
I. Thu họach, bảo quản
- Thu hoạch vào lúc sau trổ 28-30 ngày, hoặc thấy 85-90% số hạt trên bông đã chín vàng. Nếu thu hoạch sớm hay trễ đều làm giảm chất lượng và tăng tỷ lệ hao hụt.
- Hiện nay một số nơi đã áp dụng thu hoạch lúa bằng máy xếp dãy, máy gặt đập liên hợp, giảm được thất thóat, giảm áp lực lao động thời vụ.
- Gặt xong tuốt lúa ngay, không nên phơi mớ ngòai đồng
- Sau khi làm khô, rê sạch và sử dụng bao đúng quy cách để đựng (nếu để giống cho vụ sau). Bảo quản lúa ở nơi khô ráo và thóang. Nếu bảo quản trong thời gian dưới 3 tháng, độ ẩm lúa cần đạt 14-15%. Nếu thời gian bảo quản trên 3 tháng, độ ẩm phải đạt dưới 14%.
II. Tự chuẩn bị giống cho vụ sau
Về nguyên tắc nên sử dụng giống xác nhận do các cơ sở nhân giống từ giống nguyên chủng. Nếu muốn tự để giống có chất lượng cao thì theo các bước sau:
- Nên chọn 1/20 diện tích ruộng để làm giống, giống phải tốt, lựa chọn ruộng tốt, tiện nước, dễ chăm sóc, ruộng không bị sâu bệnh, cây lúa phát triển tốt.
- Khử cây lẫn 2-3 lần (ở thời kỳ đẻ nhánh tối đa, sau trổ đều và trước thu họach). Khử lẫn thật kỹ (lọai bỏ các cây dị dạng, các cây cao hoặc thấp, trổ sớm hoặc muộn, màu sắc khác với màu sắc chung).
- Khi thu hoạch dùng bao mới hoặc bao sạch, cắt riêng, tuốt riêng, phơi riêng (tuyệt đối tránh lẫn tạp cơ giới trên sân phơi), nếu dùng máy sấy hạt giống thí tốt nhất.Có chế độ bảo quản riêng, cẩn thận hơn, kiểm tra độ ẩm thường xuyên, nếu độ ẩm vượt quá 14% thi phải phơi ngay để khống chế độ ẩm hạt khỏang 12-13%.

Thứ Hai, 23 tháng 3, 2009

Đề xuất cơ cấu giống lúa vụ hè thu và mùa 2009 ở Nam Bộ

1. Đánh giá cơ cấu giống lúa giai đoạn 2007-2008
Trong những năm gần đây, cơ cấu giống lúa ở Nam bộ có sự thay đổi đáng kể hàng vụ. Theo số liệu điều tra của Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Giống, Sản phẩm cây trồng và Phân bón Nam Bộ năm 2007, trong số các giống cực ngắn ngày, giống IR50404 đạt diện tích siêu trội trong cả 3 vụ, chiếm tỷ lệ trên 15% tổng diện tích gieo trồng, vượt xa các giống còn lại và có xu hướng tăng nhanh diện tích trong năm 2008. Việc IR50404 đạt diện tích siêu trội chủ yếu vì diện tích của giống OM1490 giảm nhanh, nhưng chưa có giống cực ngắn ngày tốt khác thay thế; điều này đặt ra vấn đề cần phải điều tiết cơ cấu giống IR50404 cho phù hợp.
Các giống lúa có diện tích sản xuất rộng, ổn định nhiều năm qua là VND95-20, OM576, Jasmine85 và OM2517. Giống OM1490 được khuyến cáo loại bỏ hoặc giảm diện tích, vì vậy từ giống có diện tích đứng đầu giai đoạn 2000-2005, diện tích sản xuất OM1490 đã giảm đáng kể, nhưng vẫn đứng thứ 10 trong vụ ĐX 06/07 và thứ 7 trong vụ hè thu 07. Jasmine85 giữ vị trí quan trọng trong sản xuất ở ĐBSCL (đứng thứ 5 về diện tích), đặc biệt trong vụ ĐX.
Qua năm 2008, đặc biệt trong vụ hè thu, diện tích giống IR50404 tăng đột biến ở hầu hết các tỉnh ĐBSCL; nhiều tỉnh diện tích IR50404 chiếm tới 50-60% tổng diện tích gieo trồng. Tuy nhiên đến vụ ĐX 2008/2009, do tác động của thị trường và sự chỉ đạo quyết liệt của Bộ NN- PTNT cùng các địa phương, diện tích IR50404 đã giảm mạnh, thay vào đó nông dân sử dụng các giống cao sản chất lượng cao và lúa thơm đặc sản như OM4900, OM5930, OM6073, Jasmine85, VD20... Ở thời điểm thu hoạch rộ trong vụ ĐX 08/09 hiện nay, lúa IR50404 cho năng suất cao, được giá (giá thu mua IR50404 chỉ thấp hơn các giống chất lượng khoảng 200 đồng/kg), vì vậy xu hướng tăng diện tích sản xuất IR50404 trong vụ hè thu tới là thực tế.
2. Đề xuất cơ cấu giống lúa vụ hè thu và mùa 2009
Hiện tại, dịch hại (rầy nâu, đạo ôn và vàng lùn, LXL) vẫn là mối hiểm họa thường xuyên, việc chuyểnđổi cơ cấu giống lúa theo hướng tăng tỷ lệ nhóm giống lúa chống chịu tốt với rầy nâu, bệnh đạo ôn và bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá vẫn cần thiết. Ngoài ra để đảm bảo ổn định nguồn gạo hàng hóa chất lượng cao cho xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, cần coi trọng xây dựng cơ cấu phù hợp giữa các nhóm giống: Chất lượng trung bình - thấp, chất lượng cao, và lúa nếp, đặc sản. Cơ cấu 3 nhóm giống này cần được duy trì ở tỷ lệ: 25% - 55% - 20% như giai đoạn 2006-2007 là phù hợp.
Để sử dụng tốt nhất nguồn giống lúa hiện có, cần xây dựng cơ cấu giống lúa cân bằng toàn vùng cả về khía cạnh chất lượng và chống chịu sâu bệnh hại. Cơ cấu diện tích các nhóm giống lúa theo tỷ lệ 30% giống kháng đến nhiễm nhẹ, 50% giống hơi nhiễm đến nhiễm, và không quá 20% giống nhiễm đến nhiễm nặng rầy nâu, đạo ôn và VL, LXL đã được định hướng trong thời gian qua tiếp tục được duy trì; cần quản lý chặt chẽ cơ cấu giống lúa IR50404, đảm bảo tỷ lệ IR50404 không quá 20% cơ cấu giống từng vùng thông qua mở rộng diện tích các giống lúa ngắn ngày có triển vọng như OM4900, OM6073, OM6162, OM6677, OM6561, OM5199, OM4059, HĐ1, OM6377, OM4218, MTL149... kết hợp với duy trì tỷ lệ hợp lý giống lúa OM2514 và OM1490.
Ngoài ra, trong vụ hè thu, thu đông và mùa tới cần chú ý đến mức độ chống chịu bệnh khô vằn và điều kiện khó khăn như đổ ngã, hạn đầu vụ, phèn mặn… để xây dựng cơ cấu giống phù hợp. Tuy nhiên cơ cấu giống xây dựng chỉ trở thành thực tế khi hệ thống sản xuất giống đủ mạnh để có thể điều tiết cơ bản (trên 50%) nguồn hạt giống cho sản xuất. Trên cơ sở đánh giá cơ cấu giống lúa ở ĐBSCL năm 2008, và kết quả khảo nghiệm, sản xuất thử các giống triển vọng mới, cơ cấu giống lúa cho từng tiểu vùng sinh thái ở Nam Bộ đề nghị như sau:
1. Vùng bán đảo Cà Mau: Áp dụng các giống lúa ngắn ngày, chịu phèn mặn và điều kiện khó khăn.
§ Giống chủ lực: OM2517, VND95-20, OMCS2000, OM2717, IR50404...
§ Giống bổ sung: OM4498, AS996, OM2718, OM576, OM4495, Jasmine85, ST5, OM4900, OM6561, OM6073, B-TE1...
§ Giống triển vọng: OM6162, OM5472, OM6677, OM 6561...
2. Vùng tây sông Hậu và Tứ giác Long Xuyên: Áp dụng các giống lúa thâm canh cao.
§ Giống chủ lực: OM2517, OM4498, OM2395, OMCS2000, IR50404...
§ Giống bổ sung: Jasmine85, OM2717, OM2718, OM1490, OM5930, HĐ1, OM576, OM4900, OM6073...
§ Giống triển vọng: OM6035, OM3689, OM4668, OM5936, OM4218...
3. Vùng phù sa ngọt dọc sông Tiền, sông Hậu: Ưu tiên sử dụng các giống lúa cao sản chất lượng cao.
§ Giống chủ lực: OM2517, VNĐ95-20, Jamine85, OM2514, OMCS2000, OM4900...
§ Giống bổ sung: IR50404, nếp, OM5930, OM1490, OM2717, OM2395, IR64, TNĐB100, OM6073...
§ Giống triển vọng: OM6062, OM4668, OM6162, OM6035, OM4092...
4. Vùng Đồng Tháp Mười: áp dụng giống lúa cực ngắn ngày, chịu phèn mặn trung bình – khá.
§ Giống chủ lực: IR50404, VNĐ95-20, OMCS2000, OM4498, OM3536...
§ Giống bổ sung: OM2517, OM1490, OM576, OM1490, OM2514, VD20, Jasnine85, OM6561, OM4900, OM6073...
§ Giống triển vọng: OM4088, OM6162, OM5636, OM6561, MTL499, OM5472, OMCS2009...
5. Vùng ven biển Nam bộ: áp dụng giống ngắn ngày, thâm canh trung bình – khá, chịu điều kiện khó khăn.
§ Giống chủ lực: VNĐ95-20, OM2517, IR50404, OM576, AS996...
§ Giống bổ sung: OM3536, OM4498, OM2718, ST5, OM4900, OM6073, OM6561, OM5199...
§ Giống triển vọng: OM6677, MTL499, OM4668, OM6561, OM4059, MTL547, OMCS2009...
6. Tp. Hồ Chí Minh và các tỉnh ĐNB.
§ Giống chủ lực: VNĐ95-20, OMCS2000, ML48, IR64, IR59606, OM6073...
§ Giống bổ sung: VNĐ99-3, OM5930, OM3536, TH6, OM4900, OM4498.
§ Giống triển vọng: MTL499, OM5936, OM6162, VN 21, OM4059...
7. Các giống lúa mùa.
§ Lúa mùa địa phương: Tài Nguyên, Rẽ hành, Một Bụi, Móng chim, Nanh chồn, Marshuri...
§ Lúa mùa cải tiến: OM1350, OM1352, IR42, Tép hành đột biến (THĐB)...
3. Các giống lúa triển vọng cho sản xuất ở Nam bộ
Căn cứ vào kết quả khảo nghiệm và sản xuất thử năm 2008-2009 của Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống, Sản phẩm cây trồng và Phân bón Nam Bộ, các viện nghiên cứu, trường đại học và trung tâm khuyến nông, trung tâm giống các tỉnh, 15 giống lúa triển vọng điển hình được tổng hợp và trình bày trong bảng dưới đây. Nhìn chung các giống lúa triển vọng đều có đặc tính nông học tốt, năng suất cao ổn định, thích hợp cả hai vụ đông xuân và hè thu, chất lượng gạo khá đến tốt, mức độ chống chịu rầy nâu, bệnh đạo ôn và VL, LXL khá tốt hoặc chấp nhận được.
Trong số các giống liệt kê trong bảng, các giống OM5930, OM4900, OM6561, OM5199, OM6073 và OM4059 đã được Bộ NN-PTNT công nhận chính thức; các giống OM4668, VN121, OM6035, OM4088... đã được Bộ NN-PTNT công nhận cho sản xuất thử ở Nam bộ; các giống còn lại là những giống triển vọng ở nhiều tỉnh.





Nguyễn Quốc Lý

Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2009

CHUYÊN ĐỀ RẦY NÂU

KS. Nguyễn Chí Công
(Tổng hợp)

BÀI 01: RẦY NÂU
1. Mô tả Rầy nâu
- Rầy trưởng thành cánh dài xâm nhập vào ruộng lúa và đẻ trứng trên các bẹ lá hoặc ở các gân lá. Trứng xếp hình nải chuối. Rầy non tuổi 1 có màu trắng, các tuổi sau có màu vàng nâu.(5 tuổi)
- Rầy trưởng thành có hai loại: cánh dài và cánh ngắn. Rầy trưởng thành cánh ngắn xuất hiện phổ biến trước lúc trổ bông, rầy cánh dài thường xuất hiện vào giai đoạn lúa chín và di chuyển, phát tán.
2. Vòng đời rầy nâu:
- Vòng đời của rầy nâu từ 25 – 28 ngày, trong điều kiện nhiệt độ 25 – 300C.
3. Đặc điểm gây hại
3.1. Tác hại trực tiếp: rầy cám và rầy trưởng thành cánh dài hoặc cánh ngắn đều chích hút nhựa cây lúa gây ra hiện tượng cháy rầy khi mật số cao. Rầy nâu gia tăng mật số nhanh và cao (bột phát) gây hại nặng cho cây lúa khi:
- Trồng lúa liên tục trong năm
- Dùng giống nhiễm rầy
- Gieo sạ mật độ dày
- Bón dư thừa phân đạm,
- Phun thuốc trừ sâu không đúng cách (trộn nhiều loại thuốc, phun nhiều lần…).
3.2. Tác hại gián tiếp: là môi giới truyền vi rút gây bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá cho cây lúa.
4. Đặc điểm truyền bệnh
- Rầy nâu chích hút nhựa cây lúa bị bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá rồi mang mầm bệnh vi rút này trong cơ thể để truyền sang cho cây lúa khoẻ mạnh khi chúng đến chích hút cây lúa đó.
- Rầy nâu mang mầm bệnh có khả năng truyền bệnh cho đến khi chết.
- Cây lúa càng non càng dễ bị nhiễm bệnh, về sau có thể không trổ bông được, năng suất giảm nghiêm trọng hoặc mất trắng. Cây lúa già bị nhiễm bệnh thì năng suất bị giảm ít hơn.
" Tóm lại, rầy nâu chỉ truyền bệnh khi có nguồn bệnh (lúa bị bệnh, lúa chét bị bệnh, cỏ bị bệnh) tồn tại trên đồng ruộng.
5. Phòng trừ rầy nâu truyền bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá hại lúa
5.1. Các biện pháp phòng
- Không trồng lúa liên tục trong năm, bảo đảm thời gian cách ly giữa hai vụ lúa ít nhất 20 – 30 ngày, không để vụ lúa chét. Theo sự phân vùng của ngành nông nghiệp, thời vụ trong cùng một vùng phải tập trung, không được gieo sạ kéo dài;
- Vệ sinh đồng ruộng bằng cách cày,trục kỹ trước khi gieo sạ, dọn sạch cỏ bờ ruộng, mương dẫn nước
- Sử dụng giống lúa kháng rầy, lúa giống có chất lượng tốt, không lấy lúa thịt làm lúa giống; nếu điều kiện có thể sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để xử lý hạt giống.
- Không gieo sạ quá dày trên 120 kg giống/ ha
- Gieo sạ lúa vào thời gian có thể né rầy: thường mỗi tháng có một đợt rầy vào đèn rộ kéo dài từ 5 – 7 ngày; để né rầy thì gieo sạ ngay sau đỉnh cao rầy vào đèn. Như vậy, khi lúa non sẽ tránh được rầy trưởng thành truyền bệnh.
- Để bảo vệ cây lúa non, sau khi sạ nên cho nước vào ruộng và duy trì mực nước thích hợp để hạn chế rầy nâu chích hút thân cây lúa.
- Không bón quá thừa phân đạm (urê); tăng lượng phân lân và phân kali để nâng cao sức chống chịu đối với bệnh.
- Thường xuyên thăm đồng để phát hiện sớm sự xuất hiện của rầy nâu trên cây lúa (phải vạch gốc lúa để xem).
5.2. Biện pháp trừ bằng thuốc bảo vệ thực vật để dập dịch
Khi phát hiện có rầy trên lúa thì phun xịt thuốc bảo vệ thực vật để diệt rầy.
- Giai đoạn lúa từ sau gieo sạ đến 20 ngày: nếu phát hiện rầy nâu xuất hiện thì phun thuốc diệt trừ bằng các loại thuốc phù hợp
- Giai đoạn từ sau 20 ngày đến trổ - chín: Giai đoạn này, nếu phát hiện rầy nâu với mật số từ 3 con/dảnh trở lên thì phun xịt thuốc trừ rầy. Khi phun xịt thuốc trừ rầy phải theo “4 đúng” gồm:
+ Đúng loại thuốc: theo khuyến cáo của cơ quan bảo vệ thực vật địa phương và tham khảo ở phần Phụ lục, không pha trộn nhiều lọai thuốc để phun;
+ Đúng liều lượng: pha thuốc theo đúng liều lượng và phun đủ lượng nước thuốc pha theo hướng dẫn ghi trên nhãn bao bì của mỗi loại thuốc;
+ Đúng lúc: khi phát hiện rầy cám ở tuổi 1-3, hoặc rầy trưởng thành chiếm đa số trong ruộng
+ Đúng cách: hướng vòi phun vào sát gốc lúa nơi rầy bu; không được phun trên ngọn lá lúa. Trước khi phun thuốc nếu có điều kiện nên cho nước ngập ruộng để rầy di chuyển lên cao, xịt dễ trúng rầy hơn.
6. Tóm tắt tính năng tác dụng, cách sử dụng một số loại thuốc trừ rầy nâu phổ biến
6.1. Hoạt chất Buprofezin
- Nhóm điều tiết sinh trưởng côn trùng
- Nhóm độc III (WHO)
- Thuốc có tác động tiếp xúc, vị độc, xông hơi yếu không lưu dẫn.
- Thuốc kiềm hãm tổng hợp Chitin, cản trở quá trình lột xác của rầy non, làm rầy non bị chết. Thuốc không diệt được rầy trưởng thành nhưng làm hạn chế khả năng đẻ trứng của chúng. Hiệu lực của thuốc thể hiện chậm (sau 2-3 ngày khi rầy non lột xác mới chết nhưng thời gian duy trì hiệu lực kéo dài).
- Lượng dùng:
+ Thuốc ở dạng 10 WP hoặc 10 BTN dùng 1,0 - 1,2 kg/ha pha trong 400 L nước
+ Thuốc ở dạng 25 WP dùng 0,6 kg/ha pha trong 400 L nước.
Chú ý : Phun thuốc khi rầy non mới nở, rầy tuổi còn nhỏ. Khả năng hỗn hợp: Hoạt chất nầy cũng có thể hỗn hợp với các hoạt chất khác như Fenobucarb, Isoprocarb để giúp tác động của thuốc thể hiện nhanh hơn.
6.2. Hoạt chất Fenobucarb
- Nhóm Carbamate
- Nhóm độc II (WHO)
- Thuốc có tác động tiếp xúc, vị độc, không lưu dẫn.
- Thuốc diệt rầy non và rầy trưởng thành, không diệt trứng.
- Liều lượng sử dụng: 1,5 - 2,0 L/ha, pha trong 400 L nước
6.3. Hoạt chất Isoprocarb
- Nhóm Carbamate
- Nhóm độc II (WHO)
- Thuốc có tác động tiếp xúc, vị độc có tính xông hơi nhẹ, phổ tác động tương đối hẹp.
- Lượng dùng:
+ Thuốc dạng 20 EC dùng 1,5-2,0 L/ha pha trong 400 L nước.
+ Thuốc dạng 25WP dùng 1,5-2,0 kg /ha pha trong 400 L nước.
+ Thuốc dạng 50WP dùng 0,7-1,0 kg/ha pha trong 400 L nước.
6.4. Hoạt chất Imidacloprid
- Nhóm Neonicotionoid
- Nhóm độc II (WHO)
- Thuốc có tác động tiếp xúc, vị độc và lưu dẫn. Khi phun vào cây thuốc được hấp thu nhanh chóng và có tính hướng ngọn.
- Thuốc diệt trừ nhanh rầy non và rầy trưởng thành.
- Lượng dùng:
+ Thuốc dạng 100 SL dùng 0,4- 0,5 L/ha pha trong 400 L nuớc.
+ Thuốc dạng 10 WP, 100 WP dùng 0,4- 0,5 kg/ha pha trong 400 L nước.
+ Thuốc ở dạng 700 WG dùng 40 g/ pha trong 400 L nước
6.5. Hoạt chất Thiamethoxam
- Nhóm Neonicotionoid
- Nhóm độc III (WHO)
- Thuốc có tác động tiếp xúc, vị độc và lưu dẫn. Khi phun vào cây thuốc được hấp thu nhanh vào cây và có tính hướng ngọn.
- Thuốc diệt trừ nhanh rầy non và rầy trưởng thành.
- Liều lượng sử dụng:
+ Dạng 25 WG dùng 80 g/ha pha trong 400 L nước.
6.6. Hoạt chất Etofenprox
- Nhóm Pyrethroid không este
- Nhóm độc III (WHO)
- Thuốc có tác động tiếp xúc, vị độc, tác động đến thần kinh côn trùng, gây chết nhanh.
- Liều lượng sử dụng 0,75-1,0 L /ha pha trong 400 L nước.

********
BÀI 02: CHẾ PHẨM SINH HỌC TRỊ RẦY NÂU VÀ PHỤC HỒI THIÊN ĐỊCH
LUAGAO – Các nhà khoa học của trường ĐH Nông lâm và Viện lúa ĐBSCL, với sự hỗ trợ của ĐH Paul Sabatier (Pháp) đã chiết xuất được hoạt chất rotenol (với tên thương phẩm ROT 1,5EC) từ rễ cây thuốc cá và cóc kèn, đã cho kết quả độ kết tinh của rotenol sạch tương đương với loại thuốc Rotenol của Hãng Across (Pháp) sản xuất.
So với các loại thuốc hoá học như Karate, Trebon... ROT 1,5EC có hiệu lực bằng 74- 84% sau một ngày xịt và 83- 91% sau 3 ngày xịt, nhưng chỉ còn 50% ở ngày thứ 10. Như vậy, nên xịt ROT 1,5EC ít nhất 5-7 ngày/lần.
Đối với các loài rầy, ROT 1,5EC có tác dụng mạnh hơn Bt 72,5 lần từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 10 xịt thuốc. Đối với sâu cuốn lá, ROT 1,5EC có hiệu lực tương đương với Karate và Trebon.
Sau 10 ngày xịt ROT 1,5EC, thiên địch trên đồng ruộng phục hồi 75% so với Bt chỉ phục hồi 26,7% (trong khi các loại thuốc hoá học thì thiên địch rất khó phục hồi do tính lưu tồn cao của hoá chất). Các loại thiên địch trên lúa là bọ xít hôi, bọ xít mù xanh, nhện, kiến ba khoang, bọ rùa, ong ký sinh...
ROT 1,5EC có tác dụng mạnh nhất với rầy và sâu cuốn lá từ 1- 3 ngày sau xịt, diệt được 65- 68% sâu cuốn lá, 75% rầy, thiên địch phục hồi nhanh. ROT 1,5EC còn giúp tăng năng suất lúa và an toàn với môi trường.
(Theo: Báo Nông thôn ngày nay)

********
BÀI 03: NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN BIẾT VỀ QUẢN LÝ RẦY NÂU HẠI LÚA

Câu 01: Mật độ rầy trên ruộng bao nhiêu thì cần phun xịt thuốc? Vì sao cần phun thuốc trừ rầy ở tuổi 2 và tuổi 3. Cách nhận dạng rầy ở độ tuổi này?
Hiện nay có một số vùng trồng lúa mùa có phẩm chất gạo ngon để xuất khẩu như các vùng xung quanh TPHCM, Long An. Các giống lúa mùa không có gien kháng rầy nên rầy nâu phát triển, thường lúa mùa sẽ chín trước hoặc ngay sau tết nên thức ăn của rầy sẽ hết và rầy sẽ đi tìm thức ăn khác. Rầy nâu có khả năng di cư rất xa hàng ngàn cây số, nên khoảng trước hay sau tết khi có gió bấc thổi theo hướng từ các tỉnh miền trên xuống các tỉnh ở ĐBSCL sẽ đưa rầy nâu theo, và nó có khả năng mang virus truyền bệnh lúa cỏ, lùn xoắn lá hay bệnh vàng lùn cho lúa đông xuân.
Vòng đời của rầy nâu rất ngắn, chỉ khoảng một tháng, giai đoạn trứng khoảng 6-7 ngày sẽ nở ra rầy non và trứng này nằm trong bẹ lúa rất khó thấy. Khi trứng nở rầy non gọi là rầy cám thời gian phát triển trong vòng 2 tuần lễ tùy theo giống lúa đó nhiễm rầy hay kháng rầy. Vòng đời rầy cám có 5 tuổi, trong đó ở tuổi 2, tuổi 3 nó ăn mạnh nhất, mật số rất cao và chích hút cây lúa rất mạnh nên bà con thường trị rầy ở tuổi nầy. Sau đó con rầy trưởng thành và trong vòng 1 tuần sau nó có thể bắt cặp và đẻ trứng trở lại.
Thời điểm phun thuốc trừ rầy tùy thuộc vào:
- Giống lúa: giống lúa có mang gien kháng rầy thì rầy phát triển thấp, giống lúa không có mang gien kháng rầy như lúa mùa hay một số giống lúa có phẩm chất gạo ngon thì rầy có khả năng phát triển rất nhanh.
- Thời gian sinh trưởng của rầy: nếu rầy non mật số còn thấp và chế độ dinh dưỡng trong cây lúa không cao lắm thì rầy có thể phát triển nhưng chậm. Trường hợp rầy tấn công vào cây lúa vào giai đoạn ngậm đòng, trổ và đang ngậm sữa có nghĩa là thời gian mà tất cả các dưỡng liệu trong cây lúa đang di chuyển từ lá sang bông, nếu rầy chích hút vào bất cứ nơi nào trên cây đều có nguồn dưỡng liệu rất tốt để phát triển. Khi cây lúa đã ngậm sữa, lá vàng, sắp chín thì rầy hết thức ăn, sẽ di chuyển đi hoặc rầy non sẽ chết.
- Thiên địch: thiên địch của rầy nâu rất nhiều, điển hình như nhện, kiến ba khoang, bọ xít mù và rất nhiều loại ong ký sinh trên rầy giai đoạn ấu trùng hay thành trùng.
Do đó để xác định mật số rầy bao nhiêu trên một thước vuông hay trên một tép để phun xịt thuốc tùy thuộc vào những đặc điểm trên .
Câu 02: Rầy nâu gây cháy rầy với mật số rất lớn không thấy truyền bệnh; trong khi ở ruộng khác mật độ rầy thấp nhưng lại truyền bệnh vàng lùn. Nguyên nhân và cách phòng ngừa rầy truyền bệnh ?
Rầy truyền bệnh khi nó có mang mầm bệnh, khi rầy không mang mầm bệnh thì nó chỉ có thể gây ra cháy rầy hay làm vàng cây lúa. Ngược lại, vùng có virus gây bệnh thì khi rầy chích hút nó sẽ mang mầm bệnh đó truyền sang nơi nó đến mặc dù mật số ít. Virus được mang trong nước bọt của rầy, khi chích vào cây lúa thì rầy sẽ nhả nước bọt làm cho nhựa cây lúa loãng đi để hút lên, đồng thời nó sẽ truyền virus vào trong cây lúa. Do đó, khi nghe dự báo cho biết một vùng nào đó bị bệnh này thì rầy nâu ở trên gió có khả năng di chuyển xuống, chúng ta cần cảnh giác.
Câu 03: Cách phòng trị rầy nâu, rầy xanh đuôi, rầy lưng trắng?
Những con này thường có kích thước tương tự nhau nhưng màu sắc và hình dạng hơi khác. Hai con giống nhau là rầy lưng trắng và rầy nâu, rầy lưng trắng có một vệt vàng lợt ở phía đầu, còn rầy nâu thì không có vệt vàng mà toàn một màu nâu, ở giữa cánh có một đốm đen. Con rầy xanh đuôi đen thì hơi dẹp hơn. Những con rầy nâu non gọi là rầy cám cũng có đốm nâu, ở tuổi 2 tuổi 3 là giai đoạn ăn mạnh và mật số rất cao, do đó nên trị vào lúc này trước khi nó gây hại cho cây lúa. Rầy nâu thường truyền các bệnh như bệnh lúa cỏ, lùn xoắn lá, còn rầy lưng trắng hay rầy xanh đuôi đen không truyền bệnh nên chúng ta không cần chú ý lắm.

PGS. TS. Nguyễn Văn Huỳnh - Khoa NN & SHUD, ĐH Cần Thơ.

Thứ Năm, 19 tháng 3, 2009

HỎI ĐÁP VỀ LÚA LAI

KS. Nguyễn Chí Công
(Muốn tìm hiểu thêm về Lúa lai xin liên hệ Email chicong1002@gmail.com)

1. Lúa lai là gì? Lúa lai khác với Lúa thuần ở chỗ nào?
Lúa lai (Hybrid rice) là danh từ dùng để gọi các giống Lúa ứng dụng Ưu thế lai đời F1. Lúa lai khác với Lúa thuần (Conventional rice) ở chỗ hạt giống chỉ sự dụng một lần. Lúa lai gọi tắt của Lúa ưu thế lai, chúng ta không nên nhẫm lẫn với Lúa thuần được tạo ra bằng phương pháp lai

2. Ai là người áp dụng thành công công nghệ Lúa lai đầu tiên ?
Đó là GS. Viên Long Bình (Yuan Longping) người Trung Quốc, bắt đầu nghiên cứu năm 1964. Năm 1973 đưa được lô hạt giống đầu tiên ra sản xuất. Ông được mệnh danh là “Cha đẻ của Lúa lai”



(Hình 2: Cha đẻ Lúa lai Viên Long Bình)


3. Hiện tại trên thế giới có mấy loại Lúa lai?
Có hai loại Lúa lai đang phổ biến đó là Lúa lai 3 dòng và 2 dòng
+ Lúa lai hệ ba dòng là hệ lúa lai khi sản xuất hạt lai F1 phải sử dụng ba dòng có bản chất di truyền khác nhau và hai lần lai. Dòng bất dục đực tế bào chất CMS –Cytoplasmic Male Sterile – dòng A (Mẹ); dòng duy trì bất dục đực Maintainer – dòng B và dòng phục hồi hữu dục Restorer - dòng R (Bố)
+ Lúa lai hệ hai dòng là bước tiến mới của loài người trong cuộc ứng dụng ƯTL ở cây lúa. Hai công cụ cơ bản để phát triển lúa lai hai dòng là dòng bất dục đực chức năng di truyền nhân mẫn cảm với nhiệt độ TGMS (Thermosensitive Genic Male Sterile) và bất dục đực chức năng di truyền nhân mẫn cảm với chu kỳ chiếu sáng PGMS (Photoperoid sensitive Genic Male Sterile). Tính chuyển hoá từ bất dục sang hữu dục và ngược lại ở TGMS và PGMS gây ra do điều kiện môi trường. Vì thế bất dục đực kiểu này gọi là bất dục đực chức năng di truyền nhân cảm ứng với điều kiện môi truờng EGMS (Enviroment Sensitive Genic Male Sterile)



(Hình 3: Nhân dòng mẹ PAC807 trong sản xuất Lúa lai 3 dòng tại Lâm Hà – Lâm Đồng)


4. Việt Nam áp dụng công nghệ Lúa lai từ khi nào?
Bắt đầu nhập khẩu hạt giống F1 từ Trung Quốc về trồng 1992, đến nay chúng ta đã tự sản xuất được một số giống mang tên Việt Nam như các giống TH (PGS.TS Nguyễn Thị Trâm) VL20, 24 (TS. Nguyễn Văn Hoan)…


5. Tầm quan trọng của Lúa lai?
Phá thể đội trần năng suất, tạo ra các giống Lúa năng suất cao, đảm bảo An ninh lương thực trong tương lai


6. Khó khăn nào khi áp dụng công nghệ Lúa lai?
Khó khăn trong khâu sản xuất hạt giống Lúa lai do Lúa là cây tự thụ phấn điển hình
Hiện tại Lúa lai nhiễm Sâu bệnh hại nhiều, đầu tư cao. Đưa Lúa lai thay đổi tập quán sản xuất


7. Tại Việt Nam Lúa lai phát triển ở vùng nào?
Hiện tại phát triển tất cả các vùng trồng lúa ở Việt Nam. Tuy vậy Bắc bộ và Bắc Trung bộ vẫn là nơi phát triển chính, nguyên nhân do điều kiện thời tiết và tập quán canh tác


8. Một số giống Lúa lai được trồng phổ biến ở Việt Nam hiện nay?
(1) Arize B – TE1
(2) Bác ưu 903 (Bác ưu quế 99)
(3) Bio 404
(4) Bồi tạp 49
(5) CNR 5104
(6) HYT83
(7) Nhị Ưu 63
(8) Nhị ưu 838
(9) Sán Ưu Quế 99 (Tạp giao 5)
(10) TH3 – 3
(11) TH3 – 4
(12) TH3 – 5
(13) TH5 – 1
(14) Trang Nông 15
(15) PAC 807
(16) Việt Lai 20 (VL20)
(17) Việt lai 24

Tương lai máy GẶT ĐẬP LIÊN HỢP

LUAGAO - Năm 2008 Bộ NN-PTNT tổ chức tiếp một cuộc thi máy gặt đập liên hợp từ ngày 28/2 đến 5/3/2008 tại huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp trên trà lúa ĐX. Trí tuệ Việt Nam một lần nữa đã thể hiện rõ nét qua cuộc thi. Máy của cơ sở Tư Sang đạt giải nhất. Tư Sang (Nguyễn Văn Lang), quê ở huyện Cao Lãnh (Đồng Tháp).

Thuở nhỏ, năm 1972 anh sang huyện Cái Bè học nghề cơ khí và lập cơ sở sửa chữa máy móc nông nghiệp tại Cầu Xéo. Kể từ năm 1987 đến nay sản phẩm của cơ sở Tư Sang chủ yếu là máy suốt lúa. Cũng cần nói thêm là hiện nay anh được sự trợ giúp đắc lực của hai người con trai nối nghiệp, một công nhân cơ khí bậc cao và một kỹ sư cơ khí là anh Nguyễn Hồng Thiện tốt nghiệp Đại học Bách khoa TP HCM từ năm 2000. Sản phẩm truyền thống vẫn là máy nhai, nhưng vừa có thêm một mặt hàng khác là băng tải tự động vận chuyển lương thực.
Anh Tư Sang đã tìm tòi nghiên cứu để làm máy gặt đập liên hợp hàng chục năm. Chiếc máy trình làng đầu tiên năm 1997 bị nông dân chê cười vì không thành công trên đồng ruộng. Vậy mà anh không hề nản chí và tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Cuối cùng máy mã hiệu 4ISZ-1.8 đã đạt được giải khuyến khích tại Kiên Giang năm 2007 và giải nhất năm 2008. Đặc điểm cơ bản của máy gặt đập liên hợp Tư Sang có bề rộng cắt 1,8m, công suất 0,4 ha/giờ, di chuyển bằng bánh xích, vơ lúa kiểu guồng gạt, giá 150 triệu đồng/chiếc.
Máy GĐLH và giải pháp tương lai
Hiện nay ở ĐBSCL có khoảng 1.800 máy GĐLH và 3.500 máy gặt xếp dãy. Với năng lực này chỉ đáp ứng được 15% nhu cầu và cơ giới hóa thu hoạch lúa bằng máy GĐLH là một dịch vụ sinh lợi nhanh. Sau khi trừ chi phí, chủ máy lời từ 600-800 ngàn đồng/ha. Mỗi vụ thu hoạch được 150 ha thì sau 3 đến 4 vụ sẽ thu hồi được vốn mua máy. Một máy trung bình hiện nay có thể thu hoạch được 4 đến 5 ha, tương đương với 40-50 công nhân, nhưng ít hao hụt hơn, lúa vô bao về sân trong ngày nên chất lượng tốt, mỗi ha chủ ruộng tiết kiệm chi phí từ 500 ngàn đến một triệu đồng so với cắt gom thủ công và nhai bằng máy.
Hai năm qua máy Việt Nam đều đứng đầu bảng. Tuy nhiên nghịch lý hiện nay là máy Trung Quốc mặc dù giá đắt hơn, lội sình kém hơn, rơi vãi nhiều hơn, nhưng người dân vẫn mua máy Trung Quốc. Lý do là vì máy sản xuất hàng loạt đồng nhất, mua được phụ tùng thay thế, do đó thời gian sửa chữa trên ruộng nhanh. Máy Việt Nam khi hỏng hóc, phải chờ đi thuê gò tiện từng món phụ tùng thay thế, nhiều lúc chủ ruộng không kiên nhẫn chờ đợi được và phải đi thuê cắt thủ công. Câu hỏi được đặt ra hiện nay là Việt Nam có nên đi theo hướng sản xuất máy GĐLH có thương hiệu Việt Nam hay không?
Khi nêu lên vấn đề này chúng tôi nhớ lại vào đầu thập niên 80, có hai luồng ý kiến trái ngược nhau về lai tạo chọn lọc giống lúa mới. Một là Việt Nam chúng ta gần Philippines, nơi có sẵn Viện lúa quốc tế ở đây, chỉ cần lấy về những giống do họ lai tạo chọn lọc ra, đem về khảo sát nhanh lại tại Việt Nam và sử dụng mà không cần có chương trình lai tạo cho chính mình. Luồng ý kiến thứ hai là những nhà khoa học Việt Nam cũng cần có chương trình lai tạo chọn lọc giống lúa cho riêng mình. Thực tiễn đã chứng minh rằng quan điểm thứ hai đúng. Khác với một chiếc xe chạy trên lộ, xe sản xuất từ bất cứ nước nào cũng có thể chạy trên đường lộ Việt Nam nhưng máy móc nông nghiệp thì lại khác. Nông nghiệp rất đa dạng và tùy thuộc nhiều vào điều kiện đất đai, khí hậu, thủy văn, do đó chúng ta cần có con đường đi riêng của chúng ta. Nên chăng Nhà nước cần có một chương trình tổng thể để giúp những cá nhân, cơ sở đạt giải như giúp thiết kế các chi tiết máy hiện đại trên vi tính chuẩn xác, khích lệ các công ty cơ khí chính xác gia công các linh kiện rời hàng loạt với những vật liệu đạt chuẩn quốc tế. Miễn giảm thuế nhập khẩu các linh kiện không sản xuất được trong nước. Cho vay không lãi suất với những cơ sở cơ khí này để mở rộng sản xuất…
Về mặt mở rộng diện tích thu hoạch bằng máy GĐLH hiện nay nhiều tỉnh trong vùng đang hỗ trợ 100% lãi suất ngân hàng để nông dân mua máy. Nhiều nông dân đã hưởng ứng chương trình này. Hiệu quả của chương trình này tốt nhưng phần lớn trong số họ chỉ là nông dân. Tuy nhiên còn một cộng đồng có tiềm năng lớn nữa là các người giàu ở thành phố. Nếu cuộc vận động cơ giới hóa nông nghiệp được lan sang cư dân thành thị đang làm công nghiệp, dịch vụ, thương mại thì sẽ có một tương tác tốt hơn. Tiếp xúc với một số người giàu thành phố đã đầu tư vào kinh doanh máy gặt đập liên hợp, kinh nghiệm thành công của họ là: chọn cộng tác viên là những nông dân trung thực và luôn giữ chữ tín, đã từng vận hành thành thạo một số máy móc nông nghiệp (máy cày, máy xới, máy gặt xếp dãy…), biết sửa chữa những hư hỏng nhỏ, quan hệ rộng trong xã hội để tìm địa bàn hoạt động trên từng vùng tập trung trong mỗi vụ, biết kiểm tra bảo dưỡng. Người này phải có cái tâm chắt chiu từng hạt lúa của nông dân không để rơi rụng. Thường sau hai năm thì người giàu đầu tư có thể thu hồi vốn. Sau đó thì chia lời giữa nhà đầu tư và cộng tác viên theo thỏa thuận ban đầu.
Theo đó những điều kiện khác cũng cần có để phát triển đồng bộ trong quá trình cơ giới hóa khâu thu hoạch. Đó là liên kết những chủ ruộng liền kề, hình thành các khu đất có kích thước lớn (5-10ha) để máy móc hoạt động hiệu quả; đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông thủy lợi để máy di chuyển đi lại dễ dàng; hỗ trợ nâng cấp và đào tạo công nhân tay nghề cao cho các cơ sở sửa chữa cơ khí cấp xã, ấp; cày ải sâu (15-20cm) hàng năm để tạo tầng đế cày vững chắc chống lún; mặt ruộng phải được san thật phẳng; áp dụng các biện pháp canh tác phù hợp như rút khô ruộng lúc 30-40 ngày sau sạ và 15 ngày trước khi thu hoạch cho cạn toàn bộ ruộng kể cả dưới lung trũng; sử dụng giống lúa cứng cây, sạ thưa, sạ hàng, bón phân đạm hợp lý, tăng cường phân kali, silic để hạn chế đổ ngã giai đoạn trỗ chín.


PGS.TS Dương Văn Chính

Thứ Ba, 17 tháng 3, 2009

Chương trình “ 3 giảm - 3 tăng” trong sản xuất lúa

Để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc trồng lúa nhằm tăng thu nhập cho những nông dân trồng lúa và bảo vệ môi trường, tiến tới xây dựng nền nông nghiệp bền vững. Bộ NN và PTNT đã quyết định thành lập và xây dựng chương trình 3 giảm - 3 tăng áp dụng cho canh tác lúa. Để bà con nông dân hiểu rõ về chương trình này, chúng tôi sẽ thông tin một số khái niệm, mục tiêu và nội dung chương trình. Trước hết phải hiểu 3 giảm - 3 tăng là gì? 3 giảm trong sản xuất lúa tức là phải: - Giảm lượng giống gieo sạ. - Giảm lượng thuốc trừ sâu bệnh. - Giảm lượng phân đạm. Như vậy, một câu hỏi đặt ra là tại sao phải giảm 3 yếu tố này? Khi giảm như vậy thì năng suất có giảm không? Xin thưa rằng, hiện nay theo tập quán sản xuất của bà con nông dân mình thì lượng giống gieo sạ còn quá cao, đa số đều sử dụng với lượng giống cao hơn hơn 150 kg/ha. Với lượng giống gieo sạ cao trước tiên sẽ làm tăng chi phí tiền giống, thứ hai sẽ làm tăng mật độ số cây lúa trên ruộng, việc tăng mật độ này kéo theo hậu quả là dễ phát sinh sâu bệnh trên ruộng lúa, hao tốn thêm số lần phun xịt thuốc. Đồng thời do nhiều cây lúa trên ruộng thì thêm tốn chất dinh dưỡng nhiều hơn, phải bón thêm phân. Yếu tố giảm thứ 2 là lượng thuốc bảo vệ thực vật. Thuốc BVTV đa số đều là những độc chất, việc sử dụng nhiều lượng, nhiều lần sẽ đem lại nguy cơ có hại cho con người, cho gia cầm, gia súc, cho các động vật thủy sinh và cho môi trường nước và đất. Nếu bà con áp dụng tốt kiến thức về IPM, gieo sạ đúng liều lượng hạt giống, bón phân cân đối - hợp lý, sử dụng những loại phân bón chuyên dùng cho lúa có bổ sung các nguyên tố dinh dưỡng trung vi lượng (TE) thì việc hạn chế sâu bệnh sẽ tốt hơn. Yếu tố thứ 3 cần giảm đó là cần giảm lượng phân đạm (N). Thông thường bà con nông dân rất ưa chuộng phân đạm như Urê, SA... Vì phân đạm nhanh làm cho lúa bốc (sinh trưởng nhanh, lá lúa chuyển màu xanh nhanh). Nhưng nếu bà con bón quá lượng phân đạm so với nhu cầu của cây lúa thì không những không làm tăng năng suất mà còn làm cho cây lúa mất cân đối về dinh dưỡng dễ bị sâu bệnh tấn công, dẫn đến giảm năng suất. Đồng thời lãng phí thêm tiền mua phân, lượng đạm (N) dư thừa làm ô nhiễm môi trường và là một trong những nguyên nhân gây ung thư (Do dư thừa chất NO3- --> NO2 trong nước và nông sản). Như vậy, muốn bón đúng liều lượng để hạn chế tác hại trên, bà con nên sử dụng phân NPK chuyên dùng cho lúa. Bón đạm (N) cần sử dụng dụng cụ bảng so màu lá lúa sẽ đáp ứng đúng và đủ nhu cầu N của lúa. Khi áp dụng 3 giảm thì năng suất không giảm mà có chiều hướng tăng và điều chính yếu là tăng lợi nhuận cho người nông dân trồng lúa. Còn chương trình 3 tăng thì cần hiểu như thế nào? Và phải làm gì? 3 tăng tức là: - Tăng năng suất lúa. - Tăng chất lượng lúa gạo. - Tăng hiệu quả kinh tế. Như vậy, muốn tăng năng suất cần áp dụng đúng quy trình kỹ thuật trồng lúa, áp dụng 3 giảm. Muốn tăng chất lượng lúa gạo cần sử dụng đúng giống lúa, bón phân cân đối hợp lý, chú ý các khâu kỹ thuật sau thu hoạch. Nếu áp dụng tốt chương trình 3 giảm và 3 yếu tố tăng kể trên thì việc tăng hiệu quả kinh tế cho người trồng lúa rất dễ dàng đạt được. Đây là mục tiêu chính. Ngoài ra, bà con cũng cần hiểu thêm một khuyến cáo nữa của chương trình là "1 phải và 5 giảm" - Một phải là gì? Phải sử dụng giống lúa xác nhận. - 5 giảm là gì? + Giảm lượng giống gieo sa. + Giảm lượng thuốc BVTV. + Giảm lượng phân đạm (N). + Giảm lượng nước (tiết kiệm nước). + Giảm thất thoát sau thu hoạch. Nếu làm tốt, bà con mình sẽ thu nhập cao hơn.

TS Nguyễn Đăng Nghĩa - GĐ TT chuyển giao tiến bộ KHKT (Viện KHKT miền Nam)

Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2009

Giá lúa “nóng” được bao lâu?

Sau khi Thủ tướng Chính phủ giao hai TCty Lương thực miền Bắc và miền Nam thu mua hết lúa ngay từ đầu vụ, đảm bảo người trồng lúa lãi thấp nhất 30% thì thị trường lúa gạo ĐBSCL nóng hẳn lên. Nhưng vấn đề là giá lúa "giữ nhiệt" được bao lâu?
>>
ĐBSCL: Giá lúa ĐX sẽ vượt trên 5.000 đồng/kg

Giá lúa chập chờn như... đom đóm

Nông dân ĐBSCL đã thu hoạch hơn 600.000/1,5 triệu ha lúa ĐX, năng suất bình quân 6,2 tấn/ha. Riêng Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp… năng suất lúa đạt gần 7 tấn/ha. Ngay từ giữa tháng 2/2009, giá lúa ở ĐBSCL đã tăng nhẹ và đều đặn do thị trường XK có tín hiệu tốt. Đặc biệt sau cuộc họp của Thủ tướng với hai TCty Lương thực thì giá lúa tăng tiếp khoảng 200 đồng/kg.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Bùi Bá Bổng: Nông dân đang lãi 40%
Đầu vụ ĐX nông dân gặp nhiều khó khăn do nước rút chậm, phát sinh sâu rầy, dịch bệnh… Tuy nhiên đến nay đã cầm chắc thắng lợi, cơ cấu giống rất phù hợp cho XK, giá thành sản xuất rất hợp lý, chỉ khoảng 2.100 - 2.300 đồng/kg lúa. Với giá lúa dao động như hiện tại thì nông dân đảm bảo có lãi ở mức 40%.
Tuy nhiên thực sự cả DN lẫn nông dân vẫn chưa thật yên tâm với giá lúa hiện nay, nhất là trong bối cảnh lượng lúa vụ ĐX dự báo đạt khoảng 9,5 - 9,8 triệu tấn, cao nhất từ trước đến nay. Nếu trừ lượng lúa làm giống và lúa tiêu thụ tại thị trường nội địa khoảng 3,5 triệu tấn thì vẫn dư hơn 6 triệu tấn lúa hàng hóa, tương đương khoảng 3 triệu tấn gạo. Nếu cộng sản lượng lúa các DN đã dự trữ từ cuối năm 2008 thì sản lượng lúa dư ra sẽ cao hơn con số mà các DN đã ký hợp đồng XK là 3,2 triệu tấn (6 tháng đầu năm 2009).
Đáng nói nhất là sản lượng lúa XH sắp thu hoạch “cộng hưởng” thêm số với lượng lúa hiện có khả năng sẽ “cầm chân” giá lúa hiện tại. Nông dân Nguyễn Văn Sáu, ở xã Long An, huyện Long Hồ, Vĩnh Long cho biết: “Thị trường đang làm nông dân chúng tui rối tinh rối mù, nghe thông tin DN ký được hợp đồng XK nhà nông mừng lắm nhưng đâu có biết giá là bao nhiêu. Tôi vừa thu hoạch hơn 6 tấn lúa, giá 4.200 đồng/kg nhưng đang trữ lại chờ giá. Nhà XK ngồi ở trên, nông dân bán lúa thông qua thương lái nên giá lúa biến động liên tục, chẳng biết đâu mà lần”.
Bà Nguyễn Thị Trúc Mai, chủ vựa lúa tại thị trấn Cầu Ngang, huyện Cầu Ngang, Trà Vinh cho biết: “Mấy ngày qua giá lúa thơm ST5, lúa CLC đã tăng lên hơn 200 đồng/kg. Lúa thường như IR 50404 cũng được giá 4.300 đồng/kg, lúa thơm Jasmine, ST5 khoảng 5.200 đồng/kg, OM 4900, OM 6162, OM 3536 từ 5.500 - 5.700 đồng/kg. Tuy nhiên, nhiều nông dân hỏi liệu giá lúa sẽ “cầm” được trong thời gian bao lâu thì tôi bó tay, không trả lời được. Chỉ một biến động nhỏ trên thị trường có thể làm giá lúa rớt vài trăm đồng mỗi kg chỉ trong một buổi sáng”.
Nông dân: Cần DN làm đúng chỉ đạo của Thủ tướng
Trên thực tế, hạt lúa từ đồng ruộng đến cảng xuất khẩu (Cty và DN lớn) đều phải qua thương lái. Nhà XK chỉ làm khâu lau bóng, đóng bao đúng theo hợp đồng. Và cũng không phải tất cả các Cty, DN kinh doanh ngành lúa gạo được 2 TCty giao chỉ tiêu XK mà chỉ có một số mà thôi. Vấn đề ở chỗ, DN ở tỉnh này được giao chỉ tiêu XK thấp nhưng sản lượng lúa hàng hóa của tỉnh lại dồi dào.
Tăng cường đầu tư hệ thống kho lúa gạo
TCty LTMN cho biết, sản lượng thu mua và chế biến của TCty hàng năm tại ĐBSCL khoảng 6 triệu tấn lúa. Kế hoạch của TCty đến 2011 sẽ hoàn chỉnh hệ thống kho lúa gạo có sức chứa 1,5 triệu tấn tại ĐBSCL với số vốn đầu tư khoảng 2.300 tỉ đồng. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này hệ thống kho lúa gạo tại ĐBSCL của DN mới đạt 856.000 tấn. Từ nay đến năm 2011, cần xây dựng kho chứa thêm khoảng 650.000 tấn nữa, chủ yếu tập trung trên địa bàn TP Cần Thơ.
Hiện nay, TCty đang khai thác, kinh doanh 3 chợ nông sản là chợ Phú Cường (Tiền Giang), chợ Thanh Bình (Đồng Tháp) và chợ Hậu Thạnh Đông (Long An). Quy trình vận hành cho các chợ này là khi nông dân sản xuất ra nông sản thì vận chuyển đến để giao dịch mua bán, khi chưa được giá có thể trữ lại tại các kho và nếu có yêu cầu chế biến hay bán gạo thì TCty cũng sẽ đáp ứng.Ông Nguyễn Văn Hiếu, PGĐ Sở NN-PTNT Đồng Tháp bức xúc nói: “Sản lượng lúa Đồng Tháp trên 2,7 triệu tấn lúa/năm, tương đương 1,4 triệu tấn gạo. Trừ ra sản lượng lúa giống, lúa ăn trong dân thì vẫn còn hơn 500.000 tấn gạo hàng hóa. Thế nhưng chỉ tiêu XK cả năm TCty Lương thực miền Nam phân bổ chỉ có 350.00 tấn thì làm sao tiêu thụ hết”.
Ông Hiếu nói: “Nông dân làm lúa, TCty lương thực đi bán gạo, thương lái thì biến hạt lúa ra hạt gạo. Ba khâu này chưa “khớp” nhau! Thị trường lúa, gạo từ đầu vụ lúa đến nay giá cả liên tục biến động. Có thông tin ký được hợp đồng xuất khẩu hoặc Thủ tướng chỉ đạo mua lúa thì giá lúa tăng nhưng chỉ sau đó vài ngày là giá lại... dịu”. Bà Phạm Thị Hòa, PGĐ Sở NN-PTNT An Giang cũng cho biết: Diện tích lúa An Giang là 224.000 ha nhưng giao chỉ tiêu XK gạo cho tỉnh cũng rất thấp.
Sau một năm thăng trầm của ngành hàng lúa gạo, nông dân ĐBSCL đã quá chua cay với tình trạng giá lúa lên xuống như chong chóng. Để giảm thiểu rủi ro cho nông dân, Thủ tướng vừa chỉ đạo cho 2 TCty Lương thực phải khẳng định được vị thế và thương hiệu gạo Việt Nam, tạo một hệ thống thị trường vững chắc trên thị trường gạo thế giới, vừa đảm bảo ANLT, vừa XK và cải thiện đời sống cho nông dân. Và điều nông dân cần nhất hiện tại là sự điều tiết thị trường lúa gạo đúng theo chỉ đạo của Thủ tướng.
Ông Huỳnh Văn Thông, Phó TGĐ TCty Lương thực Miền Nam thì trấn an: Thị trường XK năm nay là hết sức chủ động, thị phần XK của TCty chiếm 50 - 60%. Chúng tôi đang chỉ đạo cho các đơn vị thành viên xây kho dự trữ có thể chứa được 500.000 tấn gạo, đề phòng khi giá lúa xuống thì mua trữ lại.
THANH PHONG - PV

Thứ Ba, 10 tháng 3, 2009

Bọ xít đen hại lúa và cách phòng trị

Hỏi: Lúa đông xuân 2008-2009 ở chỗ chúng tôi đang bị bọ xít đen gây hại rất nhiều. Cây lúa bị vàng, nếu nặng có thể làm cho cả cây lúa bị khô cháy. Xin được nói rõ về con bọ xít này và phải làm gì để phòng trị chúng?
Nguyễn Đình Miền và một số nông dân ở Hải Lăng (Quảng Trị)
Trả lời: Bọ xít đen (Scotinophora sp.), thuộc họ Bọ xít (Pentatomidae), Bộ cánh nửa (Hemiptera). Trước đây ở các tỉnh phía Nam loài bọ xít này chỉ xuất hiện rải rác và gây hại không đáng kể, nhưng những năm gần đây chúng xuất hiện và gây hại nhiều hơn, trên các giống lúa mùa cũng như các giống lúa ngắn ngày. Thực tế đồng ruộng cho thấy những giống nào không kháng được rầy nâu, thì thường là những giống bị bọ xít đen gây hại nhiều hơn những giống khác.
Con trưởng thành của loài bọ xít này dài khoảng 8-10 mm, chiều rộng cơ thể khoảng 5-6 mm, có mầu đen hoặc nâu đen. Nếu bị khua động chúng thường tiết ra mùi hôi để tự vệ. Ban ngày ẩn náu dưới gốc lúa (nếu ruộng khô chúng chui xuống các lỗ nẻ hoặc nấp trong rễ lúa). Chúng có thể lặn sâu trong nước ruộng để lẩn trốn nhờ các bọt không khí bám quanh lớp da không thấm nước. Bọ xít đen rất thích ánh sáng đèn, nên ban đêm thường thấy chúng bay vào những bóng đèn thắp gần khu vực trồng lúa, nhất là ở những vùng, những ruộng lúa vừa được gặt (do không còn chỗ trú ẩn).
Một con trưởng thành cái có thể đẻ vài trăm trứng (trung bình khoảng 200 quả). Trứng hình trụ (giống cái trống), mầu hồng hơi xanh. Trứng được đẻ thành từng ổ trên bẹ lá, phiến lá (kể cả lá khô) nằm gần mặt nước ruộng. Mỗi ổ trứng khoảng 15-20 quả, thường được xếp thành 3-4 hàng. Trứng có thể bị ung (không nở), nếu bị ngâm trong nước khoảng một ngày đêm. Giai đoạn trứng kéo dài 4-5 ngày.
Con ấu trùng có hình bầu dục, mới nở kích thước cơ thể khoảng 1-2 mm, mầu nâu đỏ, chưa có cánh, di chuyển chậm chạp. Khi lớn có mầu tro nâu. Thời gian ấu trùng kéo dài khoảng một tháng.
Cả con trưởng thành và con ấu trùng đều bu bám ở phần gốc của cây lúa (gần mặt đất hoặc mặt nước) để chích hút nhựa. Để lại những đốm mầu vàng, làm cho lá chân của cây lúa bị vàng dần. Nếu bị hại nhẹ, cây lúa sinh trưởng và phát triển kém, nếu bị hại nặng cây lúa có thể bị khô héo, chết từng khóm, từng chòm (giống như bị cháy rầy). Ở thời kì trỗ, nếu bị hại nặng hạt lúa có thể bị lép, hoặc bạc trắng, gây thất thu năng suất rất nhiều.
Để hạn chế tác hại của bọ xít đen, các bạn phải tiến hành kết hợp một số biện pháp sau:
- Cuối mỗi vụ lúa hoặc trước khi xuống giống vụ sau, cần vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ, tiêu diệt hết lúa chét, cỏ dại (nhất là cỏ mồm, cỏ bắc, cỏ đuôi chồn… là những kí chủ phụ của bọ xít), đốt hết gốc rạ vụ trước để tiêu diệt bọ xít, không cho chúng sống sót, sinh sản lan truyền cho vụ sau.
- Không nên gieo sạ quá dầy, nên sạ khoảng 100-120 kg giống cho một ha là vừa (nếu sạ hàng chỉ cần khoảng 70-80 kg).
- Cần bón cân đối hợp lý giữa đạm, lân và kali. Không nên bón quá nhiều đạm để hạn chế chồi vô hiệu. Diệt sạch sẽ cỏ dại để ruộng lúa luôn thông thoáng, giảm bớt điều kiện thuận lợi cho bọ xít phát sinh, phát triển.
- Kiểm tra ruộng lúa thường xuyên để phát hiện sớm và phun xịt thuốc diệt trừ bọ kịp thời. Do bọ xít đen thường tập trung ở phần gốc của cây lúa, vì thế khi đi kiểm tra các bạn phải lội hẳn xuống ruộng kiểm tra kỹ từng bụi lúa (giống như kiểm tra rầy nâu) thì mới có thể phát hiện sớm từ khi mật độ bọ còn thấp. Kinh nghiệm của một số nông dân Long An là khi thấy bọ xít đen bay vào đèn, hoặc chớm thấy lá bị vàng ngọn hoặc lá chân bị rủ thì phải kiểm tra bọ xít ngay.
Khi phát hiện có bọ xít trên ruộng, nếu ruộng chủ động nước các bạn có thể bơm nước cao khoảng 15-20 cm, rồi giữ mực nước này khoảng 2 ngày, để ổ trứng bị ngập, trứng sẽ bị ung không nở được. Sau đó rút cạn bớt nước (chỉ để còn khoảng vài cm) rồi rải thuốc hột như: Virigent 0.3G; Sago-Super 3G; Vicarp 4H; Diaphos 10G...
Cũng có thể phun xịt một trong những loại thuốc như: Vifast 10SC; Bifentox 30ND; Vibasa 50ND; Sherzol 205EC…
Nhớ xịt trực tiếp xuống gốc lúa, nơi bọ xít đang bu bám và gây hại.
VŨ QUANG LÃNG

ĐBSCL: Nông dân lại tìm mua giống lúa IR50404


Nhiều nông dân ở các tỉnh trong khu vực ĐBSCL nói chung và tỉnh Trà Vinh nói riêng hiện đang tìm mua hoặc trao đổi giống lúa IR50404 để đưa vào sản xuất vụ hè thu sắp tới. Nguyên nhân chính xảy ra tình trạng này là do bước sang năm 2009, thị trường xuất khẩu gạo có xu hướng đổi chiều, nhu cầu gạo cấp thấp tăng cao, giá cả hợp lý…
Từ đó, có nhiều doanh nghiệp chọn đối tác có nhu cầu loại gạo này để ký hợp đồng xuất khẩu, đẩy giá lúa IR50404 lên đến 4.050-4.150 đồng/kg, tương đương với giá lúa hạt dài phẩm chất gạo tốt. Trong khi đó, giống lúa IR50404 có thời gian sinh trưởng ngắn (từ 85- 90 ngày), thích nghi rộng với nhiều vùng đất, năng suất đạt khá cao 6- 7 tấn/ha nên nông dân trồng giống lúa này trong vụ lúa đông xuân 2008- 2009 thắng đậm.
IR50404 là giống lúa hạt tròn, phẩm chất gạo thấp, trước đây rất khó xuất khẩu. Cụ thể như trong năm 2008, nông dân phải đối mặt với tình trạng lúa IR50404 bị tồn đọng không bán được. Chính vì vậy, ngành nông nghiệp các tỉnh trong khu vực ĐBSCL đều khuyến cáo chính quyền và nông dân không nên đưa giống lúa này vào sản xuất trong vụ lúa đông xuân 2008- 2009 khiến diện tích giảm mạnh.
Điều đáng lo ngại là hiện nay có nhiều nông dân ở ĐBSCL đang có xu hướng mở rộng sản xuất giống lúa IR50404. Vì vậy, khả năng tái diễn lúa tồn đọng bán không ai mua trong vụ lúa hè thu tới rất dễ xảy ra.
Lê Nam

Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2009

Đồng bằng sông Cửu Long: Bình tuyển thêm 9 giống lúa năng suất, chất lượng cao

Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long vừa bình tuyển thêm được 9 giống lúa mới có triển vọng qua quá trình trồng khảo nghiệm 150 giống lúa sản xuất trong vụ đông xuân này.
Đó là các giống: OM 6073, OM 5451, OM 6162, OM 4900, OM 4101, OM 5472, OM 6600, HG2, OMCS 200, có đặc điểm kháng sâu bệnh, năng suất cao, hạt gạo đạt chuẩn xuất khẩu. Trước đó, Viện đã bình chọn được 9 giống lúa có phẩm chất như 9 loại giống trên, thích hợp cho vụ đông xuân gồm các giống: OM 6073, OM 5199, OM 5451, OM 6072, OM 5464, OM 5472, OM 5453, OM 4088, OM 2474.
Trong những năm qua, Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn thiện và chuyển giao hàng chục giống lúa mới có năng suất cao, phẩm chất tốt đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Hiện có 63 giống lúa đang được sử dụng trên 70% diện tích đất trồng lúa ở ĐBSCL, trong đó phổ biến nhất là các giống OM 1490, OMCS 2000, VNĐ 95-20, OM576, Jasmine 85, OM 2517. Viện cũng đã chuyển giao cho nông dân nhiều quy trình thâm canh tổng hợp giúp tăng năng suất, chất lượng lúa, đạt hiệu quả kinh tế cao trên nhiều vùng sinh thái khác nhau.

Theo TTXVN