Thứ Bảy, 17 tháng 1, 2009

Cảnh giác bệnh đạo ôn trên lúa


Do ảnh hưởng của các đợt không khí lạnh từ phía Bắc tràn xuống, những ngày vừa qua thời tiết ở các tỉnh Nam bộ đã trở lên rất lạnh, nhiều nơi đêm và sáng sớm có sương mù nhiều… rất phù hợp cho bệnh đạo ôn phát sinh, phát triển.
Mặt khác do được giá cao, vụ đông xuân năm nay nông dân Nam bộ đã đua nhau trồng các giống lúa thơm, đây lại là những giống nhiễm với bệnh đạo ôn. Đã thế, hiện nay, lúa đông xuân đa số đang ở giai đoạn đẻ nhánh, làm đòng, khả năng dinh dưỡng đạm rất mạnh, đây là thời kỳ xung yếu nhất của cây lúa đối với bệnh đạo ôn lá (bệnh cháy lá).
Như vậy, tình hình thời tiết và cây trồng đang rất thuận lợi cho bệnh phát sinh, phát triển và gây hại nặng.
Theo Trung tâm BVTV phía Nam thì diện tích nhiễm bệnh đạo ôn tuần qua đã tăng khoảng 5.000 ha so với tuần trước. Như vậy bệnh đang có chiều hướng gia tăng và đang nguy cơ bùng phát dịch nếu không có những biến động đột xuất về thời tiết như khô hanh, nắng nóng trở lại.
Chỉ còn chục ngày nữa là Tết Nguyên đán, bà con Nam bộ đang tập trung cho những công việc chuẩn bị đón Xuân vui Tết. Kinh nghiệm cho thấy thời gian này bà con ta thường mất cảnh giác, ít quan tâm đến ruộng lúa nhà mình, vì thế đã có những năm bị sâu bệnh gây hại rất nặng… trong đó có bệnh đạo ôn.
Để hạn chế tác hại của bệnh một cách chủ động, bên cạnh việc chuẩn bị đón Tết, bà con cần kiểm tra ruộng lúa nhà mình thường xuyên để phát hiện sớm và phun xịt thuốc phòng trị bệnh kịp thời.
Bệnh đạo ôn có thể gây hại trên lá (còn gọi là đạo ôn lá hay bệnh cháy lá), trên cổ bông, trên hạt (còn gọi là đạo ôn bông hay bệnh khô cổ bông). Để bà con không bị lầm lẫn giữa bệnh đạo ôn với những bệnh thông thường khác trên cây lúa, chúng tôi xin nêu một số đặc điểm chính về triệu chứng của bệnh trên đồng ruộng, để bà con dễ nhận biết và phát hiện bệnh.
- Trên lá: Nấm bệnh tấn công trên lá lúa, bệnh gây hại chủ yếu ở giai đoạn mạ - đẻ nhánh. Lúc đầu vết bệnh chỉ nhỏ như đầu mũi kim, mầu xám xanh giống như bị nước sôi, sau đó chuyển sang mầu nâu, rồi lan rộng dần ra thành hình thoi (hình mắt én) xung quanh mầu nâu đậm, giữa mầu xám trắng (xem ảnh). Khi bệnh phát triển mạnh nhiều vết bệnh liên kết lại với nhau làm cho chỗ bị bệnh bị cháy khô. Nếu nặng cả lá bị cháy khô, cây lúa bị lụi xuống, gặp trường hợp này ruộng lúa sẽ bị thất thu năng suất nghiêm trọng.
- Trên cổ bông, đốt thân: Nấm bệnh tấn công trên đốt thân, trên cổ bông và trên gié lúa, cản trở việc vận chuyển chất dinh dưỡng từ cây lúa lên nuôi hạt, khiến cho hạt lúa bị lép lửng. Nếu bệnh tấn công sớm có thể làm cho hạt lúa bị lép hoàn toàn. Chỗ bị bệnh lúc đầu cũng có mầu xám xanh sau đó chuyển dần sang mầu nâu, nâu đậm. Trên cổ bông, nếu gặp ẩm độ không khí cao, ẩm ướt chỗ vết bệnh sẽ mọc một lớp nấm mốc mầu xám xanh, nếu trời khô vết bệnh sẽ khô tóp lại. Gặp gió to chỗ vết bệnh bị gẫy gập, ruộng lúa trở nên xơ xác.
- Trên hạt: Vết bệnh có hình đốm tròn, viền nâu, tâm mầu xám trắng, đường kính khoảng 1-2 mm. Nếu bệnh tấn công sớm sẽ làm cho hạt lúa bị lem lép lửng.
Khi đi kiểm tra, bà con phải lội hẳn xuống ruộng kiểm tra nhiều điểm theo đường chéo góc trên ruộng. Tại mỗi điểm bà con cần vạch lá xem xét kỹ từng bụi lúa, nhất là những chỗ lúa tốt lốp gần bờ, xung quanh các đường nước… vì nơi đây thường là những chỗ bệnh phát sinh sớm nhất so với những chỗ khác trong ruộng. Có như vậy mới không bỏ sót bệnh, nhất là khi bệnh mới chớm phát sinh vết bệnh chưa điển hình, chưa rõ ràng.
Nếu ruộng lúa nhà mình đang ở thời kỳ cuối đẻ nhánh làm đòng và thời kỳ trước sau trỗ, hoặc lúa bị tốt lốp, nhất là ruộng nhà mình đã gieo trồng giống lúa nhiễm bệnh như một số giống lúa thơm... thì bà con cần hết sức chú ý.
Khi phát hiện thấy chớm có bệnh bà con phải ngưng ngay việc bón đạm và không được để cho ruộng bị khô nước, đồng thời tiến hành phun xịt thuốc ngay.
Về thuốc bà con có thể dùng một trong các loại thuốc như: Fuji-One 40EC/40WP; Bem eurosuper 750WP; Trizole 75WP/75WDG; Vikita 50ND; Fuan 40EC; Rabcide 30WP...
Ở giai đoạn sắp trỗ đến trỗ lẹt xẹt, nếu thấy thời tiết thuận lợi cho bệnh thì phun một đợt thuốc ngừa bệnh tấn công trên cổ bông, bông và hạt lúa, và phun tiếp lần hai sau đó khoảng 10-15 ngày (bà con nhớ là phải phun vào buổi sáng sớm hoặc chiều mát để không ảnh hưởng đến thụ phấn của bông lúa). Ngoài đạo ôn, đợt phun này còn có tác dụng hạn chế lem lép hạt.
Khi sử dụng thuốc bà con phải tuân thủ nguyên tắc 4 đúng, đặc biệt là phải đủ lượng nước như khuyến cáo của nhà sản xuất để nước thuốc được trải đều trên toàn bộ ruộng và trên cây lúa. Tuyệt đối không pha thêm những loại phân bón lá có tỷ lệ đạm cao phun xịt cùng với thuốc. Để thuốc bám dính tốt, không phun xịt khi lá lúa còn ướt sương.
Nguyễn Danh Vàn

Thứ Ba, 6 tháng 1, 2009

LÚA LAI VẪN ĐƯỢC THẾ GIỚI LỰA CHỌN VÀ THEO DÕI

Lúa lai đã được nghiên cứu và phát triển rất thành công tại Trung Quốc, được nhiều nhà khoa học coi đây như cuộc cách mạng xanh của thế giới lần thứ hai.
Diện tích lúa lai của Trung Quốc đã tăng trở lại từ 14 triệu ha năm 2003 lên 15,8 triệu ha năm 2007, chiếm 53,4% diện tích lúa toàn Trung Quốc (85% diện tích lúa lai toàn châu Á), đóng góp một phần rất quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia đông dân nhất thế giới này. Hiện tại có tới 40 quốc gia ở châu Á, châu Mỹ và châu Phi tham gia vào tiến trình nghiên cứu phát triển lúa lai.
Chương trình nghiên cứu siêu lúa lai (super hybrid rice) của Trung Quốc được khởi động từ năm 1996 và cho đến nay diện tích siêu lúa lai của Trung Quốc đã đạt trên 1,5 triệu ha với năng suất bình quân 10 tấn/ha, cao hơn lúa lai 3 dòng tới 20% (một số tổ hợp cho năng suất tới 17-18 tấn/ha trên diện hẹp).
Các nhà khoa học Trung Quốc đang lập kế hoạch nghiên cứu nhằm nâng năng suất siêu lúa lai của họ lên 13,5 tấn/ha trên diện rộng vào năm 2015. Hiện tại các nhà khoa học Trung Quốc đang đẩy mạnh sử dụng những tiến bộ về công nghệ sinh học như lai xa, chuyển gen... nhằm tạo ra những tổ hợp bố mẹ siêu lúa lai không những cho năng suất cao, chất lượng tốt mà còn kháng được những sâu bệnh hại chủ yếu. Dòng phục hồi R8006 mang gen kháng bạc lá dùng để tạo ra các tổ hợp siêu lúa lai mới như Quốc Hào (1,3,6), Nhị ưu 8006, Tiên ưu 6 là ví dụ điển hình.
Thế giới cũng đang được chứng kiến những thành tựu nổi bật về nghiên cứu và phát triển lúa lai của các quốc gia ngoài Trung Quốc như Ấn Độ, Bangladesh, Việt Nam. Trong số các quốc gia kể trên, Ấn Độ đang nổi lên như một quốc gia có sự tiến bộ vượt bậc về nghiên cứu và phát triển lúa lai. Năm 2002 diện tích lúa lai của nước này chỉ vào khoảng 250 ngàn ha, bằng một nửa diện tích lúa lai của Việt Nam, năm 2007 diện tích lúa lai của Ấn Độ đã đạt 1,1 triệu ha, gần gấp đôi diện tích lúa lai của Việt Nam trong cùng thời điểm.
Điều đáng ghi nhận là toàn bộ diện tích lúa lai của Ấn Độ được cung cấp bằng hạt giống do các nhà khoa học trong nước nghiên cứu chọn tạo. Tính đến nay Ấn Độ đã cho ra đời 33 tổ hợp để phục vụ sản xuất đại trà, trong đó có tổ hợp lúa lai thơm Pusa RH 10 nổi tiếng. Ấn Độ là nước đi tiên phong trong việc nghiên cứu chọn tạo những tổ hợp lúa lai cho những vùng canh tác khó khăn như vùng cao phụ thuộc vào nước trời, vùng đất nhiễm phèn, nhiễm mặn và đã cho ra hàng loạt tổ hợp cho những vùng này.
Bangladesh là một quốc gia đông dân với mật độ dân số rất cao 970 người/km2, an ninh lương thực luôn bị đe doạ bởi ngập lụt hằng năm. Chính vì thế lúa lai được quốc gia này đặc biệt quan tâm nhằm góp phần gia tăng sản lượng lương thực. Sau một thời gian tiếp cận công nghệ, họ đã đưa diện tích lúa lai từ 15 ngàn ha năm 2001 lên 700 ngàn ha năm 2007 (tăng tới 47%). Mặc dầu vậy năng lực nghiên cứu lúa lai của quốc gia này còn nhiều hạn chế do chưa tạo được giống cho sản xuất đại trà và phần lớn hạt giống (khoảng 90%) phục vụ sản xuất lúa lai thương phẩm vẫn phải nhập khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ.
Lúa lai cũng đã phát triển mạnh ra ngoài lãnh thổ châu Á, trong đó đáng chú ý là Ai Cập, Brazin và đặc biệt là Mỹ. Mỹ là quốc gia tiếp cận khá sớm công nghệ lúa lai của Trung Quốc (1979). Tuy vậy, hiện tại chỉ duy nhất có công ty RiceTec tham gia vào nghiên cứu và phát triển lúa lai tại Mỹ. Năm 2000 RiceTec mới cho ra đời tổ hợp lúa lai đầu tiên XL6, đến năm 2004 diện tích lúa lai của Mỹ đạt 40 ngàn ha và năm 2007 vừa qua đã có tới 14-16% diện tích lúa của Mỹ (khoảng 150-180 ngàn ha) được trồng bằng giống lúa lai của công ty này. Ở Mỹ yêu cầu về năng suất, chất lượng và mức độ đáp ứng cơ giới hoá đối với giống lúa rất cao, vì vậy thành công của Ricetec chứng minh năng lực của các nhà khoa học Mỹ trong lĩnh vực khó khăn này.
Phát triển lúa lai của Việt Nam được các nhà khoa học quốc tế đánh giá cao, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu chọn tạo. Các nhà khoa học Việt Nam đã tạo ra một loạt các dòng bố mẹ có nhiều đặc tính tốt, từ đó cho ra đời một số tổ hợp lai cho năng suất, chất lượng gạo khá và đặc biệt là ngắn ngày. Hiện nay, một số tổ hợp VL, TH, HYT đang được các công ty giống trong và ngoài nước mua bản quyền để sản xuất hạt giống với quy mô lớn.
Tuy vậy, trong mấy năm gần đây diện tích lúa lai của Việt Nam đang có xu hướng chững lại, xung quanh khoảng 600 ngàn ha, trong khi đó có tới 80% lượng hạt giống phải nhập khẩu từ nước ngoài, chủ yếu từ Trung Quốc. Nguyên nhân chính là do sản xuất hạt giống lúa lai ở nước ta còn nặng về phong trào, năng lực của các cơ sở sản xuất hạt giống còn yếu. Mặt khác, cán bộ khoa học nghiên cứu lúa lai rất mỏng, trình độ hạn chế. Thêm vào đó việc quản lý chất lượng hạt giống chưa thực sự đáp ứng nhu cầu thực tế sản xuất. Để lúa lai ở nước ta phát triển bền vững thì các lĩnh vực trên cần được tăng cường, đồng thời rất cần có sự cam kết hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ Bộ chủ quản và sự tham gia của các bên liên đới.
Nhìn chung đã có sự tiến bộ rõ rệt trong lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng lúa lai vào sản xuất ở các nước ngoài Trung Quốc kể từ Hội thảo Lúa lai quốc tế lần thứ 4 tại Hà Nội. Tuy nhiên, nhìn từ Hội thảo Lúa lai quốc tế lần thứ nhất (năm 1986) tại Trung Quốc cho đến nay, sau hơn 20 năm, hầu hết các quốc gia tham gia vào tiến trình này (trừ Trung Quốc) đã đầu tư khá nhiều công sức và tiền của nhưng thành quả đạt được vẫn còn khá khiêm tốn. Dù vậy, khi dân số thế giới vẫn tăng nhanh trong khi đất đai và nguồn nước cho sản xuất lúa thì ngày càng khan hiếm nên áp dụng rộng rãi lúa lai để gia tăng sản lượng lúa là giải pháp mà nhiều quốc gia lựa chọn và theo đuổi.


Nguyễn Khắc Quỳnh