Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2010

bệnh thường gặp trên gà và vịt

1. BỆNH NEWCASTLE:
Đặc điểm:
- Bệnh phát ra quanh năm nhưng thường tập trung vào mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi của gà, bệnh phát nhanh, lây lan rộng, tỷ lệ chết cao, điều trị tốn kém, không hiệu quả.
Triệu chứng:
height=177height=180

- Gà ủ rũ, xù lông, cánh xệ, không ăn hay chui đầu vào cánh, rút cổ nhắm mắt, đứng gật gù cho nên còn gọi là bệnh gà rù.
- Gà ăn không tiêu, diều căng đầy hơi, mũi miệng chảy đầy dịch nhờn keo, thở khò khè bại liệt.
- Phân loãng màu trắng xanh, mùi tanh gà kiệt sức dần rồi chết.
- Những con mắc bệnh kéo dài ở thể mãn tính, thì có triệu chứng thần kinh co giật, quẹo cổ, đi thục lùi hoặc đi bằng đầu gối, mổ không trúng thức ăn.
Bệnh tích chủ yếu của bệnh này là xuất huyết ở dạ dày tuyến
height=204

Phòng bệnh:
- Gà 3 - 5 ngày tuổi dùng vaccin dịch tả hệ II (hệ F), lọ 100 liều pha với 10cc nước sinh lý mặn nhỏ mỗi con 2 giọt vào mắt hoặc mũi.
- Gà 20 -25 ngày tuổi cho uống vaccin Lasota, lọ 100 liều pha với 100cc nước sinh lý mặn, mỗi con uống 1cc hoặc pha với 0,5 lít nước đun sôi để nguội cho gà uống tự do hoặc dùng vaccin chịu nhiệt cho uống, lọ 50 liều pha với 0,5 lít nước đun sôi để nguội cho gà uống tự do (nên cho gà nhịn khát từ 1 đến 2 giờ, sau đó pha vaccin cho gà uống, gà sẽ uống nhanh và đồng đều).
- Gà 2 tháng tuổi chích vaccin dịch tả hệ I (hệ M), lọ 100 liều pha với 100cc nước sinh lý mặn, chích mỗi con 1cc dưới da cổ hoặc ức hoặc dùng vaccin chịu nhiệt cho uống.
- Khi phát hiện trong đàn có gà nghi bệnh dịch tả, tách riêng những con bệnh ra xử lý không điều trị, số mạnh còn lại cho uống vaccin Lasota hoặc chịu nhiệt và tăng liều gấp đôi so với liều phòng, đồng thời cho uống thêm kháng sinh và vitamin để chống kế phát và tăng sức đề kháng cho cơ thể.
2. BỆNH GUMBORO:
Đặc điểm bệnh:
- Bệnh thường xảy ra ở gà con từ 3 - 6 tuần tuổi.
- Bệnh phát ra đột ngột, lây lan nhanh tỉ lệ chết cao từ 20 - 30% (ngày thứ 3, 4 sau khi phát bệnh).
Triệu chứng:
- Gà có hiện tượng bay nhảy lung tung, bứt rứt khó chịu, mổ cắn nhau vào khu vực hậu môn.
- Giảm ăn hoặc bỏ ăn, ủ rũ, xã cánh, diều căng đầy hơi, tiêu chảy phân loãng trắng.
-Mổ gà bệnh xẽ phát hiện ở vùng ngực, đùi có những vệt xuất huyết bầm đen, túi Fabricius sưng to, bên trong có dạng như múi khế chứa nhiều dịch nhầy hoặc xuất huyết đỏ.
height=180height=176


Phòng bệnh:
- Định kỳ sát trùng chuồng và dụng cụ chăn nuôi bằng thuốc sát trùng: Biodin 0,33% hoặc Virkon 0.5%.
- Gà 1 - 3 ngày tuổi dùng vaccin Gumboro của xí nghiệp hoặc vaccin Bur 706 (nhập) nhỏ mắt mỗi con 2 giọt và lặp lại lần 2 lúc gà 15 - 18 ngày tuổi. Hoặc phòng theo lịch phòng tùy địa phương và hãng thuốc khuyến cáo.
Trị bệnh:
- Cách ly ngay các con bệnh ra khỏi đàn.
- Hiện nay chưa có kháng sinh đặc trị bệnh này, chỉ dùng thuốc trợ sức và cầm máu để tăng cường khả năng kháng bệnh cho gà.
+ Catosal hoặc Bcomplex 4cc
+ Vitamin B12 2 ống
+ Vitamin K 2 ống
+ Vitamin C 1000 mg 2 ống
+ Kết hợp với nước sinh lý ngọt chích cho 20 kg gà/lần/ngày, chích liên tục 2 ngày.
+ Sử dụng Anti - Gumboro, Vitamin C, đường Glucoza pha nước cho uống liên tục 4-5 ngày.
- Trường hợp có phụ nhiễm bệnh khác, thì dùng kháng sinh đặc trị bệnh đó, sử dụng liều thấp ban đầu rồi tăng dần lên.
3. BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG:
Đặc điểm bệnh:
- Bệnh thường xảy ra ở gà giò và gà lớn và cũng phát triển mạnh vào những lúc giao mùa (từ mưa chuyển sang nắng hay ngược lại).
- Bệnh xảy ra đột ngột, lây lan nhanh và thường gây chết nhiều về đêm, có trường hợp gà đang ấp nằm chết trên ổ.
Triệu chứng:
- Gà ủ rũ, kém hoặc bỏ ăn, mồng tím tái, miệng chảy nhiều dịch nhờn, thức ăn không tiêu, tiêu chảy phân trắng đôi khi có lẫn máu, thở khò khè, bại liệt rồi chết.
- Bệnh kéo dài, mào và yếm sưng, gà tiêu chảy, sưng khớp.
- Mổ gà thấy: tích nước màng bao tim, xuất huyết mỡ vành tim, bao tim; gan sưng, có những nốt hoại tử màu trắng như hạt phấn.
height=255
Phòng bệnh:
- Gà mới mua về hoặc lúc thời tiết thay đổi, lúc chuyển chuồng nên trộn kháng sinh như Tetra-Mutin hay Neotesol... và vitamin C cho gà uống liên tục 3- 5 ngày.
- Phòng bệnh bằng vaccin Tụ huyết trùng cho gà lúc 30 - 40 ngày tuổi, mỗi con 0,5cc. Chích lặp lại khi gà 2 tháng tuổi mỗi con 1cc.
- Nuôi gà đẻ: trước khi đẻ và sau 4 tháng chích lặp lại 1 lần, 1cc/con, chích dưới da cổ.
Trị bệnh:
- Sử dụng một trong các loại kháng sinh sau đây:
+ Kanamycin 1g/15 kg thể trọng, ngày chích 1 lần.
+ Enrofloxacin (5%) 1cc/5 kg thể trọng, ngày chích 1 lần.
+ Septotrim (24%) 1cc/3 kg thể trọng, ngày chích 1 lần.
+ Kết hợp Dexamethasone với Analgin, chích liên tục 2 ngày và cho uống kháng sinh như phần phòng bệnh trên với liều gấp đôi, liên tục 3 - 5 ngày.
+ Quét dọn chuồng trại sạch sẽ và sát trùng bằng Virkon 0.5% hoặc Biodin 0.33%.
4. BỆNH CÚM GIA CẦM:
Đặc điểm bệnh:
Là một bệnh cấp tính do virus gây nên có biểu hiện chủ yếu ở đường hô hấp của động vật với các triệu chứng như sốt cao, ho, mệt mỏi tòan thân, đau đầu, đau cơ, động vật non kèm theo các triệu chứng tiêu hóa như buồn nôn, tiêu chảy.
Bệnh có tính lây lan nhanh trên phạm vi rộng và thường gây thành dịch và tử vong nhiều ở động vật non và già, lây nhiễm từ lòai này sang lòai khác và cả người.
Do virus cúm A gây ra cho hầu hết các lòai gia thủy cầm, bệnh thường xuất hiện thể cấp tính , tỉ lệ chết cao, cúm týp A do virus H5N1 gây ra cho gà, có thể gây bệnh và làm chết người.
Tác nhân gây bệnh:
Virus cúm là một lọai virus có khả năng tồn tại khá lâu trong nhiều điều kiện khác nhau , nhất là ở nhiệt độ thấp, vì vậy dịch cúm thường xảy ra vào mùa lạnh.
Trong điều kiện đông lạnh virus tồn tại khá lâu.
Ở 220 C virus sống được 2-6 tháng.
Trong không khí 330 C virus sống được 4 giờ.
Ở nhiệt độ 600 C virus chết trong vòng 5 phút
Virus khá mẫn cảm với các lọai thuốc sát trùng gốc clo và iod cũng như chịu đựng kém với chất sát trùng mạnh như Fomol.
Cách lây truyền, thời kỳ ủ bệnh, thời kỳ lây lan, tính cảm nhiểm và đề kháng:
Đến nay chưa xác định được tất cả các đường lây truyền của virus cúm, nhiều khả năng virus lây gián tiếp qua đường không khí do hít phải virus dưới dạng khí dung hoặc do tiếp xúc trực tiếp với vật nuôi hay người có bệnh.
Một nguồn lây rất quan trọng đó là các lòai chim di trú , thức ăn gia súc công ngiệp nhiễm virus cũng là nguồn lây truyền khá nguy hiểm cho các trại chăn nuôi.
Thời kì ủ bệnh cúm từ 1-3 ngày.
Thú mang bệnh có thể lây truyền bệnh cho thú khác từ 3-5 ngày sau khi có triệu chứng bệnh cho đến khi chết hoặc nhiều ngày sau khi hết bệnh.
Mức độ bệnh thay đổi từ khi có triệu chứng đường hô hấp đến nhẹ , trầm trọng hay dẩn đến tử vong tùy vào lòai cảm nhiễm và các yếu tố khác như tuổi, giới tính, liều gây nhiễm, môi trường hay sự cộng nhiễm của các bệnh khác.
Triệu chứng và bệnh tích:
Ở gia cầm giảm đẻ trứng, xuất hiện triệu chứng hô hấp như thở khó , có tiếng ran, chảy nhiều nước mắt, viêm xoang, xanh tím dưới da, đặc biệt là da cổ, và mào xuất huyết, phù đầu và mặt, xù lông, tiêu chảy, rối loạn thần kinh, tỉ lệ chết cao đến 100%. Trường hợp cấp tính gà bệnh chết mà không có triệu chứng điển hình. Bệnh tích đặc trưng ở gia cầm là phổi sưng , xuất huyết và họai tử. Buồng trứng và ruột viêm, xuất huyết não và cơ tim.
height=227
Chẩn đoán:

Chẩn đóan lâm sàng chỉ là phỏng đóan. Chần đoán xác định phải phân lập virus từ dịch tiết hay phân của thú bệnh qua nuôi cấy trên phôi trứng.
Phương pháp phòng chống:
Về phương diện thú y do bệnh không có thuốc đặc trị nên phòng bệnh là biện pháp chủ yếu để giảm thiệt hại.
Phòng bệnh bằng cách tiêu độc và cách ly là biện pháp duy nhất để giảm thiệt hại.
Trước mùa dịch các biện pháp vệ sinh tiêu độc chuồng trại là rất cần thiết để hạn chế mật số của virus gây bệnh. Tăng sức đề kháng bằng cách giảm mật độ cho gia súc uống hoặc trộn thức ăn Vitamin C và B12 để chống Stress do thức ăn và thời tiết là biện pháp tốt để giảm khả năng nhiễm bệnh của gia cầm.
Trong mùa dịch không cho vật nuôi tiếp xúc với vật nuôi bệnh. Thường xuyên tiêu độc chuồng nuôi, phun thuốc sát trùng trong thời gian nuôi, giữa hai đợt nuôi chuồng phải được tiêu độc đúng kỹ thuật và bỏ trống, khô ít nhất 2 tuần. Tiêu độc kỷ các phương tiện ra vào trại chăn nuôi, hạn chế công nhân đi lại từ chuồng này sang chuồng khác. Hạn chế tối đa việc tham quan.
Chống dịch: nếu xác định có nguy cơ lây nhiễm cho người thì phải tiêu diệt các vật nuôi nhiễm bệnh hay có nguy cơ nhiễm bệnh cao. Để dập tắt dịch cúm gia cầm bán kính 3 km tính từ ổ dịch được áp dụng để hủy các đàn trong khu vực. Ngưng vận chuyển, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm từ gia cầm ngay trong vùng dịch. Tiêu độc, tẩy uế và vệ sinh nơi có dịch.
5. BỆNH BẠCH LỴ:
Đặc điểm bệnh:
- Bệnh Bạch lỵ còn gọi là bệnh trỉnh đích ở gà, bệnh có thể truyền qua trứng. Thông thường gà nhiễm qua đường tiêu hóa và hô hấp.
- Gà con bị bệnh nặng từ mới nở đến 2 tuần tuổi.
Triệu chứng:
-Gà con ủ rũ, ít vận động, mắt nửa nhắm nửa mở, cánh sã, bỏ ăn, uống nước nhiều, ỉa chảy phân hôi khắm, có bọt màu trắng, có khi có lẫn máu, phân bết quanh hậu môn. Mổ khám thấy xuất huyết ở tim gan, phổi, lách.
height=235

- Gà lớn thường bị bệnh ở dạng ẩn, triệu chứng không rỏ rệt, thường chỉ thấy ỉa chảy, phân bết đích, đẻ ít, trứng méo mó.
- Trứng ấp bị nhiễm bệnh thì tỉ lệ chết phôi cao, gà con nở ra yếu, hở rốn nhiều, lòng đỏ không tiêu hết...
Phòng bệnh:
- Cần giử ấm cho gà trong 3 tuần đầu, nhất là đàn gà không có mẹ. Ta dùng bóng đèn điện 75W hoặc đèn bảo để sưởi ấm cho gà.
- Ngày đầu không cho gà ăn chỉ cho uống nước có pha Vitamin C 1g/1lít nước sạch.
- Ngày thứ 2 - 5 cho ăn thức ăn dễ tiêu như tấm nhuyễn, bột bắp trộn với hành lá hoặc tỏi bầm nhỏ, sau đó cho gà ăn thức ăn hổn hợp.
- Cho gà uống nước sạch pha kháng sinh như Ampicoli hay Enrocolistin liều 1 muỗng cà phê pha 2 lít nước cho uống liên tục 3 -5 ngày.
Trị bệnh:
- Dùng kháng sinh như Oxolinic hoặc Colitetravet liều 2 gr pha/1lít nước cho uống, đồng thời trộn ăn 4gr thuốc/1 kg thức ăn cho cả đàn ăn, liên tục 3 - 5 ngày. Những con bị bệnh tách riêng ra dùng một trong những thuốc trên pha nước bơm trực tiếp ngày 2 lần, liên tục 3 ngày.
6. BỆNH CẦU TRÙNG:
Đặc điểm bệnh:
- Chăn nuôi gà trong một thời gian dài mầm bệnh sẽ có điều kiện phát triển mạnh.
- Bệnh thường tập trung và gây thiệt hại nhiều ở gà con từ 20 - 30 ngày tuổi. Gà trưởng thành kháng bệnh tốt hơn nên thiệt hại ít hơn.
- Gà đang mắc bệnh hoặc đã lành bệnh đều thường xuyên bài thải trứng qua phân, từ đó nhiễm vào thức ăn, nước uống, dụng cụ chăn nuôi và gây bệnh cho con khác. Trứng bài thải sau 2 - 4 ngày mới có khã năng gây nhiễm và khó bị diệt bằng các loại thuốc sát trùng thông thường.
Triệu chứng:
- Gà ủ rũ bỏ ăn uống nhiều nước, xệ cánh, xù lông, đi đứng không vững, ngoẹo đầu trên lưng, phân loãng lúc đầu màu xanh chuyển dần sang màu nâu có lẫn máu, tỉ lệ chết cao. Gà kém ăn, gầy ốm dần, đẻ giảm, rất dễ kế phát các bệnh đường ruột khác.
- Manh tràng sưng to và xuất huyết.
height=250

Phòng bệnh:
- Hằng ngày quét dọn chuồng trại sạch sẽ. Thức ăn nước uống phải sạch và đầy đủ dưỡng chất, không bị hôi, mốc.
- Trước khi nuôi cần vệ sinh thật kỹ các dụng cụ chăn nuôi, chuồng trại bằng nước sôi và để chuồng trống 1 - 2 tuần.
- Trộn vào thức ăn các loại thuốc như Anticoc, Baycox, Rigecoccin, ... cho gà ăn lúc gà 10 - 12 ngày tuổi, 20 -22 ngày và sau 2 tháng. Mỗi đợt dùng thuốc trong 3 ngày liền, theo liều hướng dẫn trên bao bì.
Trị bệnh:
- Dùng một trong các loại thuốc phòng trên, nhưng phải tăng liều gấp đôi, pha nước cho uống hoặc trộn vào thức ăn cho ăn liên tục 3-5 ngày.
- Khi điều trị nên kết hợp với Vitamin K và một số Vitamin nhóm B.
7. BỆNH GIUN ĐŨA:
Bệnh xãy ra mọi lứa tuổi gà nhất là ở gà con và gà dò và gây thiệt hại lớn nhất cho đàn gà nuôi gia đình.
Nguyên nhân:
Trứng do giun cái sống trong ruột đẻ ra và được bài tiết theo phân ra ngoài, có khã năng hình thành ấu trùng cảm nhiễm là 5-25 ngày. Gà ăn phải trứng giun ở giai đoạn cảm nhiễm có lẫn trong thức ăn, nước uống vào cơ thể hoặc gà ăn giun đất có nhiễm trứng giun đũa.
Triệu chứng:
Gà kém ăn hoặc ăn chậm lớn hay tiêu phân lỏng, sau đó có hiện tượng thiếu máu, mào nhợt.
Mổ khám: thấy giun trong ruột, niêm mạc sưng, tụ huyết và xuất huyết.
Trị bệnh:
Piperazin liều 200-250 mg/kg thể trọng, liên tục 2-3 ngày.
Tetramisol liều 40 mg/kg thể trọng.
Levamisol liều 20-30 mg/kg thể trọng.
Mebendazol liều 40 mg/kg thể trọng.
Phòng bệnh:
Gà nuôi nhốt cần giữ chuồng luôn khô sạch, hàng ngày phải dọn phân cho vào hố ủ.
Cần cho gà ăn uống đầy đủ, máng ăn, máng uống rửa sạch.
8. BỆNH HÔ HẤP MÃN TÍNH:
Nguyên nhân:
Do vi khuẩn Mycoplasma gallisepticum gây nên, bệnh kế phát từ những bệnh khác Khi thời tiết thay đổi như quá nóng, lạnh, gió rét, ẩm độ cao, thông thoáng kém, dinh dưỡng kém, vận chuyển gà.
Sự truyền bệnh qua trứng từ gà mẹ.
Triệu chứng và bệnh tích:
Gà con và gà dò đều thở khó, khò khè, kém ăn, gấy sút; gà lớn khó thở; gà phải há mồm ra để thở, chảy nước mắt, nước mũi, gà hay vẩy mỏ, kêu toóc toóc, đầu sưng. Gà đẻ giảm đẻ, tỉ lệ đẻ 20-30%, trứng ấp tỉ lệ chết phôi trước khi nở tăng.
Xác gà gầy và nhợt nhạt do thiếu máu, khí quản viêm đỏ, niêm mạc mũi và các xoang mũi sưng phù chứa đầy dịch nhớt màu vàng hay vàng xám. Phổi phù thũng, mặt phổi phủ fibrin.
Phòng bệnh:
Mua giống gà ở những cơ sở chăn nuoi tốt, vệ sinh chuồng trại tốt, thông thoáng.
Dùng Tylosin, Genta-tylo, Tylosulfa, Tiamulin, CRD-Stop, một tháng sử dụng 2 lần, mỗi lần 3 ngày.
Vaccin Nobi-vac MG (Hãng Intervet-Hà Lan): tiêm dưới da cho gà con liều 0.5 ml/con vào lúc 15-18 ngày tuổi. Thường vaccin chỉ dùng cho đàn bố mẹ và gà đẻ vì giá đắt.
Điều trị:

Tylosin, Tiamulin, Genta-tylo

Genta-costrim, Tylosulfa pha nước cho uống.
Có thể kết hợp sử dụng Streptomycin + Penicillin.

9. BỆNH NẤM PHỔI:

Nguyên nhân:
Bệnh gây ra do nấm Aspergillus fumigatus, do hít phải bào tử nấm từ chất độn chuồng, thức ăn. Do gà mái đẻ mắc ở thể mãn tính co thể truyền bào tử nấm sang trứng.
Triệu chứng:
Gà con mắc bệnh thường mệt mỏi, kém ăn, mắt lim dim, đứng tách đàn dần dần khó thở, mũi chảy ra nước nhờn, trúng độc co giật rồi chết.
Gà lớn bệnh gầy yếu giảm cân, khát nước, gà thở nặng nhọc kho khăn, há mỏ để thở.
Phổi và túi khí có những chấm tổn thương màu trắng, vàng, xanh lá cây.Nhiều khuẩn lạt nấm hình hạt nhỏ vàng, xanh lá cây.
Phòng bệnh:
Vệ sinh chuồng trại thường xuyên, chất độn chuồng, thức ăn... tránh ẩm ướt để nấm không nhiễm và phát triển.
Sát trùng chuồng trại bằng dung dịch CuSO4 0.5%.
Chăm sóc nuôi dưỡng tốt.
Điều trị:
Chưa có thuốc đặc trị, có thể điều trị bằng một trong các loại thuốc sau:
CuSO4 pha nước cho uống, liều 0.3-0.5g/lít nước.
Iodua-kali pha nước uống, liều 1%.
Mycostatin 2 gram/100 kg thức ăn.
Nystatin 6 gram/100 kg thức ăn.
Vitamin A, C, B-Complex.

10. HỘI CHỨNG GIẢM ĐẺ:

Nguyên nhân:
Bệnh do một loại virus Adenovirus.
Bệnh lan truyền qua trứng do gà mẹ mang trùng thải virus làm lây lan phân tán bệnh.
Triệu chứng:
Gà đang đẻ bình thường tự nhiên giảm đẻ đột ngột, tỷ lệ giảm trứng 20-30% so với bình thường, kéo dài và liên tục. Gà vẫn ăn uống bình thường không gầy ốm, chết. Vỏ trứng sần sùi, chất lượng vỏ kém.
Phòng trị:
Không có thuốc phòng trị đặc hiệu. Dùng vitamin, chất khoáng và chăm sóc nuôi dưỡng tốt.
B-Complex
Multivit chích liên tục 2-3 ngày.
Vitamin ADE
Vệ sinh chuồng trại.

11. BỆNH THIẾU VITAMIN:

Nguyên nhân:
Do khẩu phần thức ăn thiếu vitamine
Triệu chứng:
Gà thiếu vitamin A sẽ chậm phát triển, giảm đẻ tỷ lệ nở phôi thấp. Mắt mờ, chân, da, mào khô, sừng hóa.
Gà thiếu vitamin B1 chân yếu, đầu nghẹo, không đi được, ăn kém, gầy còm.
Thiếu vitamin B2 hấp thụ thức ăn kém, gà chậm lớn.
Thiếu vitamin PP (axít Nicotinic hay Nicotinamid) miệnh loét, viêm khớp, viêm ruột.
Thiếu vitamin B12 gà thiếu máu, chậm lớn.
Thiếu vitamin C sức đề kháng gà yếu, kém chịu nóng.
Thiếu vitamin D xương mềm, gà đi tập tễnh, khớp xương biến dạng, gà đẻ xượng rỗng, vỏ trứng mỏng, giảm tỷ lệ đẻ.
Thiếu vitamin E gà phù đầu, sưng xuất huyết não, gà con đi lại khó khăn, đi hay ngã hoặc đầu hay cúi giữa 2 bàn chân. Gà trống kém hoạt động, tỷ lệ nở thấp.
Điều trị:
Bổ sung vitamin vào thức ăn, cho uống. (3-5ngày).
Multivit 1g/1lít nước hoặc 0.5 kg thức ăn.
Vitamin ADE

B-complex

Một số bệnh thường gặp trên Vịt và biện pháp phòng trị
* Bệnh dịch tả hay phù.
Đầu: bệnh do Herpes virus gây ra, bệnh thường xảy ra ở vịt từ 15 ngày tuổi trở lên.
- Triệu chứng:
+ Vịt con: lờ đờ, không muốn xuống nước, ăn kém hơn mọi ngày.
+ Vịt lớn: chân bị liệt, nhiệt độ cao 43-44oC.
+ Biểu hiện chung là vịt ủ rũ, đứng 1 chân, đầu rút vào cánh, mí mắt sưng. Vịt khó thở, chảy nước mũi, đầu sưng to, ỉa chảy, phân loãng màu trắng xanh, cánh xệ xuống sau khi mắc bệnh từ 5-6 ngày. Vịt chết đột ngột trong tư thế còn khỏe, đặc biệt, vịt trống chết thì dương vật bị lòi ra ngoài.
- Phòng ngừa và điều trị: Do mầm bệnh là virus, hiện nay chưa có thuốc điều trị hữu hiệu. Nhưng trong trường hợp đàn vịt đang phát bệnh, thì cần được thực hiện một số biện pháp sau đây để hạn chế thiệt hại.
+ Giết bỏ ngay các vịt đang bệnh, chôn xác vịt cùng với vôi sống.
+ Chuyển đàn vịt nuôi sang khu vực khác, tiến hành sát trùng, tẩy uế các vật dụng chăn nuôi và chuồng trại.
+ Cho vịt uống kháng sinh và bổ sung các vitamin vào nước uống để ngăn ngừa phụ nhiễm vi trùng.
+ Cách phòng trị hiệu quả nhất vẫn là tiêm phòng vaccin dịch tả cho vịt theo lịch tiêm chủng. Lần thứ 1: lúc 3 ngày tuổi, lần thứ 2: lúc 21 ngày tuổi (đối với vịt thịt). Lần thứ 3: lúc 9 ngày tuổi, lần thứ 4 lúc 5 tháng tuổi (đối với vịt để làm vịt đẻ).
* Bệnh tụ huyết trùng:
Bệnh do vi trùng pasteurella multocida gây ra, với nhiều type huyết thanh khác nhau. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng thường xuất hiện ở vịt trên 15 ngày tuổi.
- Triệu chứng: xảy ra ở 2 thể biểu hiện:
+ Thể cấp tính: Sốt cao, chảy nước mũi làm vịt khó thở. Vịt chết đột ngột, xác chết tụ máu tím bầm. Phổi, gan, ruột đều bị viêm và xuất huyết.
+ Thể mãn tính: Thường những vịt còn sống sót sau thời gian ở thể cấp tính. ở thể này, có biểu hiện sau: chảy nước mũi, khó thở, vịt gầy ốm dần, sưng khớp làm vịt bị liệt, viêm màng não làm vịt bị ngoẹo cổ.
- Phòng và điều trị.
+ Cho vịt ăn uống đầy đủ nhất là đầu mùa mưa và khi trời trở lạnh. Nhốt riêng vịt bệnh và đưa đàn vịt mạnh đi nơi khác; chôn sâu vịt bệnh chết.
+ Tẩy uế chuồng và nơi chăn thả bằng vôi bột.
+ Khi xung quanh có dịch xảy ra hay vào lúc giao mùa, nên dùng Teramycine hay chloramphenicol và sulfamide trộn vào thức ăn hay nước uống cho vịt.
+ Chữa bệnh: có thể tiêm (nếu nặng) và cho uống các loại kháng sinh sau:
- Tiêm: sử dụng Bio-Anfio 1m1/5kg thể trọng, hoặc Erysultrim 1m1/10 kg thể trọng.
- Uống, ăn, sử dụng Genta-Ampicol 2 g/lít hay 4 g/kg thức ăn hoặc Cogenr 2 g/lít hay 4 g/1kg thức ăn.
Trong thời gian điều trị, phải chú ý cung cấp đầy đủ các chất điện giải và các loại vitamin tổng hợp cho cả đàn.
* Bệnh do E.coli gây ra.
Bệnh này khá phổ biến, gây thiệt hại rất nặng cho vịt đàn, đặc biệt là vịt con. Vi trùng E.coli thường xâm nhập vào trứng xuyên qua vỏ trứng nhiễm vào phôi và xâm nhập từ đường lây qua các dụng cụ chăn nuôi, nguồn nước, nguồn thức ăn.
- Triệu chứng: có 3 thể nhiễm:
+ Thể nhiễm trùng hô hấp - nhiễm trùng máu: E.coli xâm nhập qua đường miệng, vào hệ thống hô hấp, định vị trực tiếp tại túi khí, làm túi khí trở nên đầy và đục. Sau vài ngày vi trùng E.coli xâm nhập vào máu, gây nhiễm trùng máu, từ máu E.coli đi đến nhiều nơi, gây tổn thương nhiều cơ quan khác làm viêm màng bao tim, màng bao quanh gan, khớp và thận, lá lách.
+ Thể viêm ruột: Thường làm vịt ỉa chảy với nhiều nước, xuất huyết phần trên ruột non.
+ Thể viêm rốn: Thường thấy ở gà, vịt mới nở, E.coli nhiễm vào cuống rốn do người nuôi vệ sinh, sát trùng máy ấp không tốt. E.coli làm bụng sưng to, nếu vịt sống được hơn 4-5 ngày thì E.coli có thời gian để vào máu gây viêm màng ngoài tim, màng bao quanh gan, viêm túi tỷ lệ chết rất cao.
Phòng bệnh:
+ Vệ sinh trứng cho thật tốt kể cả máy ấp trứng, dụng cụ ấp.
+ Sát trùng dụng cụ nuôi, chuồng trại theo định kỳ.
+ Dùng kháng sinh với E.coli qua nước uống và trộn vào thức ăn cho vịt ăn uống ngay giai đoạn vịt mới nở.
+ Chích ngừa vaccin E.coli cho vịt.
- Điều trị: Khi phát hiện bệnh cần tiến hành điều trị ngay bằng kháng sinh trong 4-5 ngày liên tục. Có thể dùng các loại khác sinh sau:.
Norfloxacin 200: 1cc/3-4 lít nước.
Enro-kaneocol: 1 g/lít nước hoặc 3 g/kg thức ăn.
Enro-trimecol: 1 g/1,5 lít nước hoặc 1,5 g/kg thức ăn.
Trường hợp bệnh nặng quá, có thể dùng kháng sinh Bio-anflox 50:1m1/5kg thể trọng, chích trong 4-5 ngày liên tục.

Kỹ thuật trồng cây Dưa Leo

CÂY DƯA LEO
Tên khoa học: Cucumis sativus L.
Họ bầu bí: Cucurbitaceae

1. GIỚI THIỆU

Dưa leo được biết ở Ấn Độ cách nay hơn 3.000 năm, sau đó được lan truyền dọc theo hướng Tây Châu Á, Châu Phi và miền Nam Châu Âu. Dưa leo được trồng ở Trung Quốc từ thế kỹ thứ 6 và hiện nay được trồng rộng rãi khắp nơi trên thế giới.

Dưa leo cung cấp nhiều vitamin và khoáng chất. Trái dưa leo chứa 96% nước và 100g trái tươi cho 14 calo; 0,7 mg protein; 24 mg calcium; vitamin A 20 IU; vitamin C 12 mg; vitamin B1 0,024 mg; vitamin B2 0,075 mg và niacin 0,3 mg.

2. ĐẶC TÍNH SINH HỌC

Rễ: Bộ rễ dưa phát triển rất yếu, rễ chỉ phân bố ở tầng đất mặt 30 - 40 cm.

Thân: Thân thảo hằng niên, thân dài, có nhiều tua cuốn để bám khi bò. Chiều dài thân tùy điều kiện canh tác và giống, các giống canh tác ngoài đồng thường chỉ dài từ 0.5 - 2,5 m. Thân trên lá mầm và lóng thân trong điều kiện ẩm độ cao có thể thành lập nhiều rễ bất định. Thân tròn hay có góc cạnh, có lông ít nhiều tùy giống. Thân chánh thường phân nhánh; cũng có nhiều dạng dưa leo hoàn toàn không thành lập nhánh ngang. Sự phân nhánh của dưa còn chịu ảnh hưởng của nhiệt độ ban đêm.

Lá: Lá đơn, to mọc cách trên thân, dạng lá hơi tam giác với cuống lá rất dài 5 - 15 cm; rìa lá nguyên hay có răng cưa. Lá trên cùng cây cũng có kích thước và hình dáng thay đổi.

Hoa: Đơn tính cùng cây hay khác cây. Hoa cái mọc ở nách lá thành đôi hay riêng biệt; hoa đực mọc thành cụm từ 5 - 7 hoa; dưa leo cũng có hoa lưỡng tính. có giống trên cây có cả 3 loại hoa và có giống chỉ có 1 loại hoa trên cây. Hoa có màu vàng, thụ phấn nhờ côn trùng, bầu noãn của hoa cái phát triển rất nhanh ngay trước khi hoa nở. Các giống dưa leo trồng ở vùng ĐBSCL thường ra hoa sớm, bắt đầu ở nách lá thứ 4 - 5 trên thân chính, sau đó hoa nở liên tục trên thân chính và nhánh.

Sự biến dị về tính trạng giới tính ở dưa leo rất rộng, đó là đặc tính thích nghi mạnh của cây trong điều kiện môi trường. Nói chung, điều kiện ngày dài, nhiệt độ cao và các điều kiện bất lợi khác làm cho cây cho nhiều hoa đực. Ngoài ra, tỉa nhánh, sử dụng kích thích sinh trưởng và chế độ phân bón có thể ảnh hưởng đến sự biến đổi giới tính của cây. Các dạng cây có giới tính khác nhau ở dưa leo được nghiên cứu và tạo lập để sữ dụng trong chọn tạo giống lai.

Trái, hạt: Lúc còn non có gai xù xì, khi trái lớn gai từ từ mất đi. Trái từ khi hình thành đến khi thu hoạch có màu xanh đậm, xanh nhạt, có hay không có hoa văn (sọc, vệt, chấm), khi chín trái chuyển sang màu vàng sậm, nâu hay trắng xanh. Trái tăng trưởng rất nhanh tùy theo giống, có thể thu trái từ 8 - 10 ngày sau khi hoa nở. Phẩm chất trái không chỉ tùy thuộc vào thành phần các chất dinh dưỡng trong trái mà còn tùy thuộc vào độ chặc của thịt trái, độ lớn của ruột trái và hương vị trái. Trái chứa hạt màu trắng ngà, trung bình có từ 200 - 500 hạt/trái.

Dưa leo thuộc nhóm ưa nhiệt, nhiệt độ ngày thích hợp cho dưa tăng trưởng là 30oC. và nhiệt độ ban đêm 18 - 21oC. Dưa có phản ứng với độ dài ngày khác nhau tùy theo giống, thông thường ngày ngắn kích thích cây ra lá và trái, vì vậy điều kiện thời tiết vùng đồng bằng cho phép dưa leo ra hoa trái quanh năm.

Yêu cầu về độ ẩm đất của dưa leo rất lớn. Dưa chịu hạn rất yếu, thiếu nước cây sinh trưởng kém và tích lũy chất cucurbitaxin làm trái trở nên đắng. Tuy nhiên ẩm độ không khí cao lại giúp cho bệnh đốm phấn phát triển mạnh.



height=120
3. GIỐNG

Có 2 nhóm giống dưa leo:

3.1. Nhóm dưa trồng giàn: Canh tác phổ biến ở những nơi có điều kiện làm giàn. Các giống dưa trong nhóm này có:

3.1.1. Các giống lai F1:

- Mummy 331: Nhập nội từ Thái Lan, sinh trưởng khá, ra nhánh mạnh, bắt đầu cho thu hoạch 35 - 37 NSKG, trái suông đẹp, to trung bình (dài 16 - 20 cm, nặng 160 - 200 g), vỏ màu xanh trung bình, gai trắng, thịt chắc, phẩm chất ngon, dòn, không bị đắng, năng suất trung bình 30 - 50 tấn/ha.

- Giống 759: Nhập nội từ Thái lan, sinh trưởng mạnh, cho thu hoạch 35 - 37 NSKG, trái thẳng, to trung bình, gai trắng, màu trái hơi nhạt hơn nhưng năng suất và tính chống chịu tương đương Mummy 331.

- Mỹ Trắng: Nhập nội từ Thái Lan, cây phát triển và phân nhánh tốt, cho thu hoạch 35 - 37 NSKG, tỉ lệ đậu trái cao, trái to trung bình, màu trắng xanh, gai trắng, ít bị trái đèo ngay cả ở giai đoạn cuối thu hoạch.

- Mỹ Xanh: Nhập nội từ Thái Lan, cây sinh trưởng tốt, chống chịu tốt hơn giống Mỹ Trắng, trái to tương đương Mỹ Trắng nhưng cho nhiều trái và năng suất cao hơn.

- Happy 2 và Happy 14: Nhập nội từ Hà Lan, cây phát triển rất mạnh nên cần giàn cao, cây cho 100 % hoa cái, có 10 % cây đực cho phấn. Do đó trong kỹ thuật trồng chú ý đảm bảo tỉ lệ cây đực trong quần thể. Trái to (dài > 20 cm, nặng > 200g), màu xanh trung bình, ruột nhỏ, gai trắng nên trái giữ được rất lâu sau thu hoạch. Dưa Happy chống chịu tốt bệnh đốm phấn và cho năng suất cao tương đương các giống F1 khác.

3.1.2. Các giống dưa leo địa phương

- Dưa leo Xanh: Tăng trưởng khá, ít đâm nhánh nên phải trồng dầy, cho trái rất sớm (32 - 35 NSKG), trái to trung bình, vỏ xanh trung bình, gai đen, dưa cho năng suất từ 20 - 40 tấn/ha. Khuyết điểm của giống là cho trái loại 2 nhiều vào cuối vụ và dễ nhiểm bệnh đốm phấn. Hiện nay giống nầy được Công Ty Giống Cây Trồng Miền Nam chọn lọc thành giống cao sản.

- Dưa Tây Ninh: Tăng trưởng mạnh, đâm nhánh mạnh, hoa cái xuất hiện trên dây nhánh nên cho thu hoạch trễ (40 - 42 NSKG), trái to dài hơn dưa leo xanh, vỏ xanh trung bình, có sọc, 2 đầu hơi nhỏ hơn phần giửa trái. Dưa Tây Ninh chịu nóng tốt, thích hợp canh tác trong thời điểm giao mùa hơn dưa Xanh và cho năng suất cao hơn. Giống nầy cũng được Công Ty Giống Cây Trồng Miền Nam chọn lọc thành giống cao sản.

3.2. Nhóm dưa trồng trên đất: Trồng phổ biến ở những nơi không có điều kiện làm giàn hay diện tích trồng lớn và canh tác trong mùa khô, phần lớn là giống địa phương:

- Dưa chuột: Cây bò dài 1m - 1,5 m, cho thu hoạch rất sớm (30 - 32 NSKG), nhiều trái và mau tàn. Trái nhỏ, ngắn (dài 10 -12 cm, nặng < 100 g), màu xanh nhạt, vỏ nhanh chuyển màu vàng sau thu hoạch, thịt trái mỏng, ruột to, ăn ngon giòn, được ưa chuộng để ăn tươi hoặc trộn giấm nhưng không có giá trị kinh tế cao.

- Dưa leo Phụng Tường: Tăng trưởng khá và ra nhánh mạnh, cho trái sớm (32 - 35 NSKG), trái dài trung bình, màu xanh trắng, gai đen, ruột đặc. Dưa Phụng Tường cho năng suất cao hơn và vỏ trái không chuyển sang vàng nhanh như dưa chuột nên được trồng phổ biến hơn.

4. KỸ THUẬT CANH TÁC

4.1. Thời vụ

Có thể trồng quanh năm, tuy nhiên dưa leo tăng trưởng tốt trong mùa mưa hơn mùa khô. Các vụ trồng khác nhau có thuận lợi và khó khăn khác nhau:

- Vụ Hè Thu: gieo tháng 5 - 6, thu hoạch tháng 7- 8 dl, đây là thời vụ chính trồng dưa leo giàn. Mùa nầy dưa cho năng suất cao, ít sâu bệnh và đở công tưới nước.

- Vụ Thu Đông: gieo tháng 7- 8, thu hoạch 9 - 10 dl, do mưa nhiều, cây có cành lá xum xuê, cho ít hoa trái. Trong thời kỳ trổ bông nếu gặp mưa liên tục vào buổi sáng thì cây đậu trái kém hoặc trái non dễ bị thối, vụ nầy dưa dễ bị bệnh đốm phấn nên thời gian thu hoạch ngắn.

- Vụ Đông Xuân: Gieo tháng 10 - 11, thu hoạch tháng 12 - 1dl, dưa leo bò và dưa giàn đều trồng được. Vụ này thời tiết lạnh, thường có dịch bọ trĩ và bệnh đốm phấn phát triển mạnh nên phải đầu tư cao.

- Vụ Xuân Hè: Gieo tháng 1-2, thu hoạch 3 - 4 dl, mùa nầy nhiệt độ cao thích hợp cho dưa leo trồng đất. Cuối mùa nắng, thời tiết khắc nghiệt nhất trong năm, lượng nước bốc thoát qua mặt đất và lá dưa nhiều, nếu không tưới đủ nước cây sinh trưởng kém thân ngắn, lá nhỏ, hoa trái ít và cho năng suất thấp.

4.2. Làm đất và gieo hat

Dưa leo có yêu cầu đất nghiêm khắc do bộ rễ yếu và sức hấp thụ của rễ kém, nếu gặp hạn hay úng hoặc nồng độ phân cao bộ rễ dưa dễ bị vàng khô, vì thế nên trồng dưa trên đất có thành phần cơ giới nhẹ như cát pha, đất thịt nhẹ thoát thủy tốt, có nhiều chất hữu cơ, pH từ 6.5 - 7.5.

Nên làm đất kỹ. Đất mặt phải cày cuốc sâu, lên líp cao 20 - 25 cm để trồng trong mùa mưa hoặc trồng có làm giàn, mùa nắng trồng dưa thả bò trên đất ruộng hay đất thoát nước tốt chỉ cần đào hộc trồng, không cần lên líp. Líp trồng có thể phủ bạt plastic hay rơm rạ để giử ẩm.

Hạt dưa leo nẩy mầm rất nhanh và tỉ lệ nẩy mầm cao nên có thể tỉa thẳng 2 - 3 hạt/lổ, gieo sâu 2 - 3 cm và lấp tro trấu. Trồng giống F1 để tiết kiệm giống và chăm sóc cây con được đều, nên gieo cây con trong bầu đất và đem trồng khi có lá thật. Trồng mỗi lổ một cây, các giống ít đâm nhánh trồng 2 - 3 cây/lổ. Khoảng cách trồng 0.8 - 1.5 m x 0.3 - 0.4 m. mật độ 30.000 - 50.000 cây/ha. Dưa giàn trồng hàng đơn hay hàng đôi đều được, mùa thuận nên trồng dầy để có năng suất cao, mùa nghịch nên trồng thưa để dễ chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh.

Lượng giống trồng cho 1 ha tùy phương pháp trồng. Dưa thả bò, dưa địa phương tỉa thằng cần 1 - 3 kg giống/ha; dưa F1 - cần 0.5 - 0.8 kg hạt/ha.

4.3. Chăm sóc

4.3.1. Bón phân: Nhu cầu dinh dưỡng của dưa leo khá cao, dưa leo hấp thụ mạnh nhất là kali, kế đến là đạm. Dưa leo mẫn cảm với chất dinh dưỡng trong đất và không chịu được nồng độ phân cao; vì vậy phân được bón thúc nhiều lần thay vì bón tập trung. Ở giai đoạn đầu của sự sinh trưởng dưa hấp thụ nhiều đạm hơn các chất khác; đến khi dưa phân nhánh và kết trái dưa mới hấp thụ mạnh kali. Tuy nhiên bón đạm dư thừa dẫn tới tình trạng cây tăng trưởng mạnh và ra nhiều hoa đực.

Lượng phân bón tùy theo điều kiện dinh dưỡng có sẳn trong đất và nhu cầu của cây dưa leo qua từng giai đoạn sinh trưởng. Đối với giống lai nhập nội cho năng suất cao, cần bón phân nhiều hơn giống điạ phương.

Công thức phân thường dùng cho dưa leo trồng ở đồng bằng là:

N: 140 - 220 kg/ha

P2 O5: 150 - 180 kg/ha

K2O : 120 - 150 kg /ha

Dựa vào công thức trên có thể bón cho 1 ha dưa leo: 1 tấn phân 16-16-8, 100 kg Urê, 50 kg DAP và 100 kg KCl hoặc 200 - 300 kg Urê, 500 - 700 kg super lân, 150 - 200 kg KCl, 20-25 tấn phân chuồng và 1-2 tấn tro trấu.

Sau đây là một ví dụ về thời điểm, loại phân và liều lượng bón cho 1 ha:

Loại phân

Tổng số

Bón lót

Tưới thúc (5-10 NSG)

Bón thúc (15-20 NSG)

Bón nuôi trái (35 - 55 NSG)

Vôi (tấn)

1

1

 

 

 

Phân chuồng (tấn)

20

20

 

 

 

16-16-8 (kg)

1.000

400

 

300

300

Urê (kg)

100

 

50

 

50

DAP (kg)

50

 

50

 

 

KCl (kg)

100

 

 

 

100

NSKG: Ngày sau khi gieo

Ở những vùng có tập quán bồi bùn, phân thúc được chia làm 2 lần bón 2 bên líp vào 12 và 20 NSKG, sau đó bồi bùn lên mặt líp để lấp phân. Phân bón nuôi trái cũng được chia làm nhiều lần sau các đợt thu trái. Ngoài ra có thể phun bổ sung phân qua lá SUPERMES để tăng tỉ lệ trái loại 1.

4.3.2. Tưới nước: mùa nắng tưới 1 ngày 2 lần vào buổi sáng và buổi chiều. Tăng cường lượng nước tưới và diện tích tưới xung quanh gốc khi cây lớn, nhất là thời kỳ ra hoa trái rộ; cần thoát nước tốt trong mùa mưa. Trong trường hợp tưới rảnh, không nên để nước quá cao trong mương tưới khi cây lớn vì có thể làm hạn chế hoặc hư rễ dưa mọc dài ra mương, tốt nhất là rút cạn nước trong mương sau khi tưới.

4.3.3. Phủ rơm, làm giàn: sau các lần bón thúc, cây bỏ vòi ngã ngọn bò. Trồng dưa bò đất phải đậy rơm xung quanh gốc để giữ ẩm hoặc rải rơm rạ khắp mặt ruộng cho dưa bò, đồng thời bảo vệ trái khỏi hư thối do tiếp xúc trực tiếp với đất ẩm và rơm cũng hạn chế sự phát triển của cỏ dại.

height=120
Làm giàn kiểu chữ nhân (X)

Đối với dưa trồng giàn, khi cây bắt đầu có tua cuốn (20 NSKG) thì làm giàn kiểu chữ nhân, cao khoảng 2 m. Giàn bằng chà gai tốt hơn tre sậy vì chà gai có nhiều nhánh ngang, dưa dê bám khi bò và sử dụng được 2 - 3 vụ, cần 40.000 - 50.000 cây chà/ha . Giàn cũng có thể làm cố định bằng cọc tràm và dây kẽm để sử dụng được 3 - 5 năm. Hiện nay, việc sử dụng lưới ni long để làm giàn cho dưa leo cũng được phổ biến trong sản xuất vì giảm bớt được số lượng cây giàn, giảm chi phí, thao tác nhanh gọn và dùng được nhiều mùa.

4.3.4. Phòng trừ sâu bệnh

Sâu hại quan trọng gồm có:

- Bọ trĩ hay bù lạch (Thrips palmi): Thành trùng và ấu trùng rất nhỏ có màu trắng hơi vàng, sống tập trung trong đọt non hay mặt dưới lá non, chích hút nhựa cây làm cho đọt non bị xoăn lại. Thiệt hại này kết hợp với triệu chứng do rệp dưa làm cho đọt non bị sượng, đọt bị chùn lại, nông dân thường gọi là ngù đọt. Khi nắng lên bù lạch ẩn nấp trong rơm rạ hoặc lá cuốn lại. Thiệt hại do bọ trĩ có liên quan đến bệnh khảm.

Bù lạch phát triển mạnh vào mùa khô hạn. Thiệt hại do bù lạch trong những vùng chuyên canh rất trầm trọng. Nên trồng đồng loạt và tránh gối vụ, kiểm tra ruộng dưa thật kỹ để phát hiện sớm ấu trùng.

Bù lạch có tính kháng thuốc rất cao, nên thay đổi thuốc thường xuyên phun Vertimec, Confidor, Admire, Danitol.

- Bọ rầy dưa (Aulacophora similis): Bọ rầy có kích thước khá to, bằng đầu đủa ăn, màu cam, bay chậm, có thể bắt bằng tay vào sáng sớm khi đang ăn phá cây con. Âu trùng màu trắng ngà, ăn phần rễ hoặc thân gần mặt đất.

Thu gom tiêu hủy cây dưa sau mùa thu hoạch, chất thành đống tạo bẩy để rầy dưa tập trung, sau đó phun thuốc. Rãi thuốc hột như Bam, Basudin, Regent 20kg/ha hay phun các loại thuốc phổ biến như Sumi-alpha, Sumicidin, Baythroit, Admire.

- Rệp dưa, rầy nhớt (Aphis spp.): Ấu trùng lẫn thành trùng đều rất nhỏ, dài độ 1-2 mm, có màu vàng, sống thành đám đông ở mặt dưới lá non từ khi cây có hai lá mầm đến khi thu hoạch, chích hút nhựa làm cho ngọn dây dưa chùn đọt và lá bị vàng, rầy truyền bệnh khảm. Rầy có rất nhiều thiên địch như bọ rùa, dòi, kiến, nhện, nấm... nên chỉ phun thuốc khi nào mật số quá cao gây ảnh hưởng đến năng suất. Thuốc phòng trị như ở bọ rầy dưa.

- Dòi đục lòn lá hay sâu vẽ bùa (Liriomyza spp.): Thành trùng là một lọai ruồi rất nhỏ, dài 1.4 mm, màu đen bóng, có vệt vàng trên ngực, khi đậu cặp cánh màng xếp lại trên lưng bụng. Trứng dạng tròn, màu trắng hồng, được đẻ trong mô mặt trên lá. Âu trùng là dòi, dài 2 mm, màu vàng nhạt, đục thành đường hầm ngoằn ngèo dưới lớp biểu bì lá của nhiều lọai cây trồng như bầu bí dưa, cà, ớt, đậu... . Dưới ảnh hưởng của ánh nắng mặt trời, những đường này làm cho lá bị cháy khô, cây rất mau tàn lụi. Ruồi tấn công rất sớm khi cây bắt đầu có lá thật, thiệt hại trong mùa nắng cao hơn trong mùa mưa.

Ruồi rất nhanh quen thuốc, nên cần thay đổi chủng loại thuốc thường xuyên. Phun khi cây có 2-3 lá; khi cần thiết có thể phun lập lại sau 7-10 ngày. Qua nhiều thí nghiệm cho thấy phun các lọai thuốc gốc cúc hoặc phối hợp với thuốc gốc lân hay dầu khoáng D-C Tron Plus 5%o. Trãi màng phủ plastic trên mặt líp sẽ giãm được mật số ruồi đáng kể và cho hiệu quả kinh tế cao.

Bệnh hại quan trọng gồm có:

- Bệnh héo rũ, chạy dây (nấm Fusarium sp. ): Cây bị mất nước, chết khô từ đọt, thân đôi khi bị nứt, trên cây con bệnh làm chết rạp từng đám. Trên cây trưởng thành, nấm gây hại từ thời kỳ ra hoa đến tượng trái, cây dưa bị héo từng nhánh, sau đó héo đột ngột như bị thiếu nước rồi chết cả cây. Vi sinh vật lưu tồn trong đất nhiều năm, bệnh này có liên quan ít nhiều đến tuyến trùng và ẩm độ đất. Nấm Phytophthora sp. cũng được ghi nhận gây nên bệnh này.

Nên lên líp cao, làm đất thông thoáng, bón thêm phân chuồng, tro trấu, nhổ cây bệnh tiêu hủy. Phun hay tưới vào gốc Copper-B, Derosal, Rovral, Topsin-M 2 -3%o hoặc Appencarb supper, Aliette, Ridomil, Curzate 1-2%o. Rãi thuốc hạt Bam, Basudin 10-20 kg/ha trừ tuyến trùng. Tránh trồng dưa leo và các cây cùng nhóm như bí đỏ, bí đao, dưa hấu liên tục nhiều năm trên cùng một thửa ruộng.

- Bệnh chết héo cây con, héo tóp thân (nấm Rhizoctonia solani): Cổ rễ thường bị thối nhũng, cây dễ ngã, lá non vẫn xanh. Nấm chỉ gây hại ở giai đoạn cây con, bệnh còn làm thối đít trái. Bệnh phát triển mạnh khi ẩm độ cao; nấm lưu tồn trên thân lúa, rơm rạ, cỏ dại, lục bình, hạch nấm tồn tại trong đất sau mùa lúa.

Cần xử lý rơm bằng thuốc hóa học sau khi gieo hạt. Phun Validacin, Anvil, Rovral, Hinosan; Copper-B, Tilt super, Bonanza (các loại thuốc trị bệnh đốm vằn trên luá đều trị được bệnh này)

- Bệnh thối trái non (nấm Choanephora cucurbitarum): Thường tấn công lá, hoa và trái non 5 - 7 ngày sau khi thụ phấn, bệnh gây thiệt hại nặng trong mùa mưa. Không nên trồng qúa dầy, giảm nước tưới, không nên tưới nước vào buổi chiều tối khi bệnh đã xuất hiện. Cần vệ simh đồng ruộng, thu gom các lá trái bệnh đem tiêu hủy. Nên phun ngừa các loại thuốc như phòng trị bệnh héo rủ.

- Bệnh thán thư (nấm Colletotrichum lagenarium): Vết bệnh trên lá có màu nâu tạo thành những vòng tròn đồng tâm. Khi thời tiết thuận hợp như nắng mưa xen kẻ, vết bệnh sẽ nặng hơn, các ổ nấm màu đen nằm trên vòng tròn rất rõ. Vết bệnh trên thân có dạng dài, tạo thành vệt. Vết bệnh trên trái có màu nâu tròn lõm vào da còn gọi là ghẻ dưa, bệnh nặng các vết này liên kết thành mảng to gây thối trái, nhủng nước.

Phun Manzate, Mancozeb, Antracol, Curzate, Copper-B, Topsin-M, Toptan, Benlat-C.

- Bệnh đốm phấn, sương mai (nấm Pseudoperonospora cubensis): Vết bệnh hình đa giác có góc cạnh rất rõ, lúc đầu có màu vàng nhạt sau chuyển thành nâu; sáng sớm quan sát kỹ mặt dưới lá có tơ nấm màu trắng hoặc vàng nhạt, vết bệnh lúc già rất giòn, dễ vỡ. Bệnh thường xuất hiện từ lá già ở gốc lan lên lá non, phát triển mạnh vào thời điểm ẩm độ cao, mưa nhiều.

Phun Curzate, Mancozeb, Copper-B, Benlate-C hoặc Ridomil.

- Bệnh khảm do siêu vi khuẩn: Bệnh này được truyền từ cây bệnh sang cây khỏe bởi nhóm côn trùng chích hút như bù lạch và rệp dưa. Triệu chứng bệnh là đọt non bị xoăn lại, lá bị mất màu, lốm đốm vàng, thiệt hại nặng sẽ làm cho đọt bị sượng, cây bị chùn lại, phát triển rất chậm, khả năng cho trái rất ít, trái thường dị dạng và có vị đắng. Chỉ nên phun ngừa bù lạch và rệp dưa khi cây còn nhỏ bằng các lọai thuốc thông thường. Cần nhổ bỏ và tiêu hủy các cây bệnh để tránh lây lan.

- Bệnh lở cổ rễ, cháy khô lá (nấm Phytophthora sp.) Bệnh gây hại trên lá, trái và gốc thân. Bệnh gây haị ở bất kỳ vị trí nào trên lá, nhưng thường từ rìa lá vào, vùng bệnh như bị úng nước, chuyển sang màu đen và thối nhũn. Trên trái bệnh chỉ gây hại trên trái non làm trái bị thối đen và nhũn ra. Ở thân, bệnh thường gây hại ở phần cổ rễ làm nơi đây bị úng nước mất màu, sau đó chuyển sang màu nâu đen nhũn ra và gây thối cả rê, làm cây chết.

Thoát nước tốt cho ruộng dưa. Tránh trồng quá dày, không tưới nước đẫm vào chiều mát. Phun thuốc Manzate; Curzate, Ridomil; Aliette 7-10 ngày một lần.

5. THU HOẠCH

Dưa ăn trái tươi thu hoạch lúc trái trông ngon nhất, vỏ trái có màu xanh mượt, còn lớp phấn trắng, trái suông đẹp và đầu trái còn cánh hoa chưa rụng. Thời gian thu trái kéo dài 20 - 30 ngày, thu cách ngày một lần, lúc rộ có thể thu mỗi ngày để trái vừa lứa, đồng đều, dễ bán. Năng suất dưa chuột 15 - 17 tấn/ha, dưa leo địa phương 20 - 30 tấn/ha và các giống lai 30 - 50 tấn/ha.

Nguồn :ThS. Trần Thị Ba
Bộ môn Khoa Học Cây Trồng
Khoa Nông Nghiệp & Sinh học ứng dụng, Trường ĐHCT