Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2011

TÌNH HÌNH CƠ GIỚI HÓA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HIỆN NAY VÀ CÁC CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐẦU TƯ MÁY MÓC, THIẾT BỊ, VẬT TƯ PHỤC VỤ SẢN XUẤT NN

LUAGAO - Giới thiệu Tham luận Hội thảo “Cơ giới hóa nông nghiệp” ngày 26/10/2011 tại Hội chợ Nông nghiệp- Thương mại-Giao lưu kinh tế cửa khẩu Khánh Bình-An Giang 2011


TÌNH HÌNH
CƠ GIỚI HÓA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HIỆN NAY
VÀ CÁC CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐẦU TƯ MÁY MÓC, THIẾT BỊ, VẬT TƯ PHỤC VỤ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

I. Thực trạng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp
Hiện nay, cả nước có gần 500 nghìn máy kéo các loại sử dụng trong nông nghiệp, với tổng công suất trên 5 triệu mã lực (CV), tăng 4 lần so với năm 2001; 580.000 máy tuốt đập lúa; 17.992 máy gặt lúa các loại (so với năm 2007 máy gặt đập liên hợp năm 2010 tăng 9,75 lần; năm 2011 tăng 16,6 lần; máy gặt xếp dãy năm 2010 tăng 1,4 lần, năm 2011 tăng 3,4 lần), riêng vùng ĐBSCL có 11.424 chiếc máy gặt các loại, trong đó: 6.609 máy GĐLH và 4.815 chiếc máy gặt rải hàng (tổng hợp báo cáo máy gặt lúa của 25 tỉnh đến 8/2011).
Hiện nay, trang bị động lực trong sản xuất nông nghiệp cả nước đạt 1,3 CV/ha canh tác.
Mức độ cơ giới hoá bình quân các khâu trong sản xuất nông nghiệp như sau: làm đất trồng lúa đạt 35- 80 %; tưới lúa chủ động đạt 85%; thu hoạch đạt 23% (vùng ĐBSCL đạt 36%); sấy lúa chủ động ĐBSCL 39%; tuốt lúa 95%; xay xát lúa, gạo 95%, góp phần bảo đảm tính thời vụ khẩn trương, tăng năng suất, chất lượng và giảm tổn thất sau thu hoạch. Một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có mức độ cơ giới hóa cao như: Đồng Tháp làm đất và bơm tưới đạt 100%, thu hoạch bằng máy đạt 85%; Long An thu hoạch bằng máy đạt 70%, sấy lúa 40-45% vụ hè thu và 25-30% vụ Đông Xuân; Tiền Giang làm đất bằng máy 100%; Vĩnh Long 100% diện tích làm đất bằng máy trong đó cày ải chiếm 78,34%; thu hoạch đạt 76% diện tích; Kiên Giang máy gặt đập liên hợp phục vụ trên 45% diện tích, lò sấy lúa bảo đảm 50% sản lượng, máy làm đất phục vụ trên 98% diện tích. Cần Thơ bảo đảm 100% cơ giới hóa làm đất, tuốt lúa, bơm tưới, sấy lúa hè thu đạt 68%, thu hoạch lúa 54,7%. An Giang làm đất và tưới tiêu đạt 95%, gieo xạ 48%, thu hoạch đạt 42%.
Hệ thống dịch vụ máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp thông qua các cửa hàng, đại lý giới thiệu sản phẩm thực hiện các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng trên cả nước phát triển nhanh. Hiện có 1.267 cơ sở, trên 18.000 người chuyên kinh doanh; 1.218 cơ sở với 14.146 người chuyên sửa chữa, bảo dưỡng, bảo hành máy móc, thiết bị (báo cáo của Bộ Công Thương). Các dịch vụ này phần lớn do tổ hợp tác và tư nhân đảm nhiệm, chiếm khoảng 80% số cơ sở dịch vụ.
Tuy nhiên, cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp còn thấp, chưa đồng bộ và phát triển chưa toàn diện. So với các nước trong khu vực, mức độ trang bị động lực của nông nghiệp Việt Nam còn thấp, bình quân đạt 1,3 CV/ha canh tác (Các khâu canh tác chủ yếu trong nông nghiệp được cơ giới hóa trên 90% của một số nước trong khu vực như: Thái Lan đạt 4 CV/ha, Hàn Quốc 4,2 CV/ha, Trung Quốc 6,06 CV/ha)
Cơ giới hóa nông nghiệp chủ yếu ở khâu làm đất cây hàng năm, tập trung cây lúa, tuốt đập, vận chuyển và xay xát lúa, gạo. Các khâu canh tác như gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch lúa và các loại cây trồng khác mức độ cơ giới hóa rất thấp, lao động thủ công vẫn là chủ yếu.
Quy mô đồng ruộng ở nước ta nhỏ, phân tán, manh mún. Hiện cả nước có tới 70 triệu thửa ruộng, bình quân mỗi hộ nông dân chỉ có 0,7 ha đất canh tác, gồm 7-8 thửa. Mặc dầu đã có chủ trương ”dồn điền đổi thửa”, song nhìn chung tình trạng manh mún vẫn là phổ biến. Điều này đã hạn chế việc xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật nội đồng (cứng hoá các mương thuỷ lợi, đường cho di chuyển máy móc, san phẳng đồng ruộng...) cũng như việc áp dụng máy móc, thiết bị trong nông nghiệp có hiệu quả.
Mặt khác, mối liên kết hữu cơ giữa các cơ quan nghiên cứu với các doanh nghiệp chưa cao, nên rất ít sản phẩm hàng hóa, có thương hiệu xuất xứ từ kết quả nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ trong lĩnh vực cơ điện nông nghiệp.
Một số sáng chế, sáng kiến, cải tiến máy móc của nông dân được đánh giá cao, song chỉ sản xuất được ở quy mô nhỏ lẻ, đơn chiếc, chắp vá và thiếu tính tiêu chuẩn, hoạt động không ổn định và không thể trở thành sản phẩm hàng hóa.
Các yếu kém trên có nguyên nhân cơ bản sau:
- Sản xuất nông nghiệp phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ.
- Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ để đầu tư, mua sắm máy móc, trang thiết bị sản xuất của nông dân gặp nhiều khó khăn;
- Trình độ sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế tạo của nước ta vẫn ở điểm xuất phát thấp. Năng lực nghiên cứu khoa học, cũng như năng lực chế tạo máy nông nghiệp còn nhiều hạn chế.
II. Về chế tạo máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp
1. Thị phần máy nông nghiệp: Hiện nay, thị trường sản phẩm cơ khí phục vụ sản xuất nông nghiệp gồm: nhập khẩu từ Trung Quốc và một số cơ sở lắp ráp máy nông nghiệp của Trung Quốc tại Việt Nam, sản phẩm của Nhật lắp ráp tại Việt Nam; máy kéo và máy nông nghiệp nhập khẩu từ các nước: Nga, Mỹ, Hàn Quốc...sản phẩm đã qua sử dụng của Nhật Bản, Hàn Quốc; các doanh nghiệp nhà nước (chủ yếu tập trung ở Tổng Công ty máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam, VEAM - Bộ Công Thương); các cơ sở ở các địa phương. Trong đó sản phẩm máy kéo và máy nông nghiệp nhập khẩu mới từ Trung Quốc và đã qua sử dụng của Nhật chiếm khoảng 70% thị phần (báo cáo của Bộ Công Thương 2010). Cụ thể như sau:
- Các loại động cơ diesel và xăng của VEAM chiếm 25% thị phần, hàng đã qua sử dụng chiếm 20%, Trung Quốc chiếm 50% và 5% nhập khẩu từ các nước khác.
- Máy xới nhỏ dưới 15 HP chủ yếu là máy đã qua sử dụng và máy Trung Quốc chiếm 90% thị phần. Máy Bông Sen (công ty máy kéo, máy nông nghiệp) chiếm khoảng 10% ở khu vực phía Bắc, riêng máy xới của VIKYNO chủ yếu xuất khẩu. Các loại máy kéo 4 bánh khoảng 90% là sản phẩm đã qua sử dụng của Nhật (công suất 24-37 CV), 10% còn lại được nhập khẩu từ Mỹ, Nga, Trung Quốc và một số ít được sản xuất tại các thành viên của VEAM.
- Máy gặt lúa các loại (máy gặt đập liên hợp, máy cắt lúa xếp dãy, máy cắt lúa cầm tay): Năm 2007-2009 khoảng 60-70% máy gặt đập liên hợp lúa nhập khẩu mới từ Trung Quốc, máy đã qua sử dụng của Hàn Quốc, còn lại do các cơ sở tư nhân ở đồng bằng sông Cửu Long, của VINAPPRO và Cơ khí An Giang (chủ yếu máy cắt lúa xếp dãy), đến nay máy gặt liên hợp lúa KUBOTA lắp ráp tại Việt Nam và của các cơ sở tư nhân chế tạo đang dần thay thế máy gặt liên hợp lúa Trung Quốc ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
- Các loại máy xay xát lúa gạo trên 97% do các doanh nghiệp trong nước sản xuất (loại công suất nhỏ đến 1 tấn/giờ do VEAM và một số cơ sở cơ khí địa phương, loại có công suất lớn do Công ty SINCO, Bùi Văn Ngọ và LAMICO sản xuất).
2. Năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước:
2.1. Theo báo cáo của Tổng Công ty máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM) – Bộ Công Thương, đang tập trung một số sản phẩm chủ lực:
- Động cơ diesel và xăng phục vụ sản xuất nông nghiệp có thể cung cấp chi thị trường 100.000 – 120.000 chiếc/năm.
- Máy xới công suất dưới 15 HP cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu 12.000-15.000 chiếc/năm.
- Máy gặt đập liên hợp lúa đang đầu tư đẩy mạnh sản xuất tại một số công ty thành viên của VEAM như Cơ khí An Giang, VIKYNO&VINAPPRO, cơ khí Vinh cùng với sự liên kết của các đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp cơ khí địa phương trong vòng 1-2 năm tới có thể đáp ứng khoảng 3.000 chiếc/năm.
2.2. Tổng Công ty Cơ điện, xây dựng nông nghiệp và thủy lợi - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hiện có 20 đơn vị thành viên, trong đó có một số đơn vị chế tạo, kinh doanh các loại phụ tùng, thiết bị, máy móc nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi, diêm nghiệp, công nghiệp chế biến, thủy điện, xây dựng và phương tiện vận tải; Hàng năm nhập khẩu số lượng nhỏ máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp như máy kéo 4 bánh của Belarus, máy đào hố..
Tổng Công ty đang triển khai thực hiện Dự án chế tạo máy gặt đập liên hợp thu hoạch theo chương trình cơ khí trọng điểm (văn vản số 3224/VPCP-KTN ngày 17/5/2010 của Văn phòng Chính phủ về xúc tiến các dự án nghiên cứu, chế tạo máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp; văn bản số 5217/BCT-CNg ngày 28/5/2010 của Bộ Công thương về xây dựng dự án đầu tư sản xuất máy nông nghiệp).
2.3. Công ty TNHH KUBOTA Việt Nam, công suất thiết kế 15.000 máy kéo/năm và 2.000 máy gặt đập liên hợp/năm, khánh thành 9/2009 tại huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, chuyên lắp ráp máy kéo (24-45 CV), máy phay; máy gặt lúa liên hợp (1,5-2 m); máy cấy 4-6 hàng; máy thu hoạch ngô. Hiện đã có 30 đại lý bán hàng trên cả nước (trong đó miền Bắc có 04 đại lý). Các loại máy nông nghiệp của KUBOTA chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện canh tác ở Việt Nam, tuy nhiên giá máy quá cao.
3. Về công nghệ chế tạo: Xét về vị trí cạnh tranh giữa các đơn vị sản xuất máy động lực và máy nông nghiệp trong nước có tính chất công nghiệp thì VEAM là đơn vị đứng đầu về máy động lực và máy nông nghiệp (động cơ, máy kéo nhỏ, máy làm đất, bơm nước, máy móc, thiết bị nuôi trồng hải sản). Thời gian vừa qua, VEAM đã thực hiện hàng loạt các dự án nâng cao khả năng chế tạo phôi liệu đúc, rèn, gia công cơ khí đến lắp ráp ở các đơn vị, như: VIKYNO&VINAPPRO; Phụ tùng 1; DISOCO; Cơ khí Trần Hưng Đạo; NAKYCO; Cty Đúc số 1... không những bảo đảm cho nhu cầu phát triển của doanh nghiệp trong tương lai, mà còn nâng cao mặt bằng công nghệ chung của ngành Cơ khí nông nghiệp Việt Nam.
Về chế tạo máy gặt lúa: Qua khảo sát thực tế hiện có 4 đơn vị (trong nước) chế tạo máy gặt lúa xếp dẫy có khả năng chế tạo 2.600 chiếc/năm, máy gặt đập liên hợp có 13 cơ sở (trong nước) có khả năng chế tạo 1.230 chiếc/năm.
Một số cơ sở đã đầu tư hệ thống máy công cụ chế tạo hiện đại như máy gia công điều kiển kỹ thuật số (CNC), gồm: cơ sở Cơ khí Phan Tấn; Doanh nghiệp tư nhân Tư Sang 2.
III. Các cơ chế chính sách
1. Đối với các địa phương:
Từ năm 2004 đến năm 2008 Chính phủ cho phép các tỉnh hỗ trợ nông dân mua sắm máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp từ ngân sách của địa phương (văn bản số 3095/VPCP-KTTH ngày 18 tháng 6 năm 2004 của Văn phòng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất cho nông dân mua máy, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp). Tính đến 2008, đã có trên 30 tỉnh, thành phố thực hiện chính sách hỗ trợ (tỉnh Nghệ An thực hiện từ năm 1998), với cơ chế tỉnh hỗ trợ nông dân từ 70- 80% tổng giá trị vốn vay với lãi suất ưu đãi, hoặc hỗ trợ 50- 100% lãi suất tiền vay, thời gian trả vốn vay 3 năm. Qua 5 năm thực hiện (2004-2009) đã có hàng chục nghìn máy kéo, máy nông nghiệp đến được với bà con nông dân, góp phần đẩy nhanh quá trình cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp đồng thời đã hướng dẫn và đào tạo được một bộ phận nông dân vận hành, sử dụng máy móc. Thị phần chế tạo máy kéo, máy nông nghiệp trong nước được mở rộng; chương trình thực hiện có sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp và Hội Nông dân Việt Nam.
2. Trung Ương:
- Thực hiện Quyết định số 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 và 2213 ngày 31/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn (gói kích cầu của Chính phủ). Theo báo cáo của Bộ Công Thương (ngày 26/7/2011), đã có 1.011.000 hộ gia đình và cá nhân được hưởng gói hỗ trợ này, với dư nợ cho vay theo QĐ 497 là 739 tỷ đồng trong đó 656,4 tỷ đồng mua máy móc, thiết bị cơ khí và phương tiện phục vụ sản xuất, chế biến nông nghiệp (85%); QĐ 2213 (đến 31/12/2010) đạt 1.560,14 tỷ đồng trong đó 374,45 tỷ đồng là dư nợ cho vay với nhóm vật tư nông nghiệp (thời hạn giải ngân từ ngày 01/01/2010 đến 31/12/2010).
- Năm 2011, Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg ngày 15/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản; Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 62/2010/TT-BNNPTNT ngày 28/10/2010 về quy định danh mục các loại máy móc, thiết bị được hưởng chính sách theo Quyết định số 63 của Thủ tướng Chính phủ; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành thông tư số 03/2011/TT-NHNN ngày 08/3/2011 về hướng dẫn chi tiết thực hiện Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg ngày 15/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản có hiệu lực từ ngày 01 tháng 5 năm 2011. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 65/2011/TT-BTC ngày 16/5/2011 về hướng dẫn hỗ trợ lãi suất vay vốn và cấp bù chênh lệch lãi suất do thực hiện chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản.
Đến nay, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã công bố danh sách cho các tổ chức, cá nhân sản xuất máy móc, thiết bị giảm tổn thất sau thu hoạch được hưởng chính sách theo Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ được 3 đợt, gồm: (1) Quyết định số 1379/QĐ-BNN-CB ngày 24 tháng 6 năm 2011 về công bố đợt I năm 2011 được (07) tổ chức, cá nhân; (2) Quyết định số 1801/QĐ-BNN-CB ngày 09 tháng 8 năm 2011 về công bố đợt II năm 2011 được (05) tổ chức, cá nhân; (3) Quyết định số 2397/QĐ-BNN-CB ngày 10 tháng 10 năm 2011 về công bố đợt III năm 2011 được (11) tổ chức, cá nhân. Các loại máy móc, thiết bị giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản, gồm: Máy sấy nông sản; máy tách hạt bắp; máy gặt lúa rải hàng; máy gặt đập liên hợp; máy và thiết bị sấy cà phê; xát cà phê khô; chế biến ướt cà phê; máy móc, thiết bị nâng cao phẩm cấp cà phê; máy xay xát lúa gạo; máy kéo 2 bánh; máy kéo 4 bánh; máy cày; bơm nước; thiết bị nuôi trồng hải sản.
Bộ Công Thương có 04 đơn vị nhà nước gồm: (1) Công ty TNHH MTV động cơ và máy nông nghiệp miền Nam (Đồng Nai) chuyên sản xuất máy gặt, máy kéo nhỏ, máy làm đất, máy xay xát gạo, bơm nước, máy móc, thiết bị nuôi trồng hải sản; (2) Công ty CP thiết bị phụ tùng số 1 (Thái Nguyên) chuyên sản xuất máy gặt lúa rải hàng; (3) Công ty TNHH MTV máy kéo và máy nông nghiệp (Hà Đông - Hà Nội) chuyên sản xuất máy kéo nhỏ từ 8-26 HP (mã lực), máy cày, bừa, phay, bánh lồng, máy gặt đập liên hợp; (4) Công ty CP Cơ khí An Giang chuyên chế tạo máy gặt lúa xếp dãy; máy gặt đập liên hợp; quạt sấy và máy tách hạt bắp.
Ngoài ra một số địa phương có chính sách hỗ trợ nông dân mua máy như:
- UBND thành phố Cần Thơ đã có chính sách thí điểm hỗ trợ lãi suất cho nông dân mua máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp giai đoạn 2011-2012 (QĐ số 29/2011/QĐ-UBND ngày 28/9/2011), theo đó hỗ trợ các đối tượng mua 200 máy gặt đập liên hợp và 50 máy kéo. Đối tượng nông dân, chủ trang trang trại được mua 01 loại máy, thời gian được hỗ trợ lãi suất tối đa 36 tháng. Trường hợp đối tượng mua máy móc, thiết bị có tỷ lệ nội địa thấp hơn 60% và có mức giá cao hơn mức giá được công bố thì phần chênh lệch giá do đối tượng mua tự thanh toán.
- UBND tỉnh Đồng Tháp đã có Quyết định 833/QĐ-UBND.HC ngày 29/9/2011 phê duyệt dự án đầu tư hỗ trợ phát triển lò sấy lúa trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2011-2013, theo đó hỗ trợ đầu tư xây dựng mới 250 lò sấy lúa các loại có công suất từ 20-40 tấn/mẻ với tổng nhu cầu vốn 228,357 tỷ đồng trong đó vốn vay ngân hàng chiếm 70% tổng vốn, vốn tự có của các tổ chức, cá nhân tham gia dự án chiếm 30%.
Quyết định 63 của Thủ tướng Chính phủ được các địa phương, các tổ chức, cá nhân sản xuất máy móc, thiết bị giảm tốn thất sau thu hoạch và nông dân rất quan tâm, phấn khởi với chính sách hỗ trợ này. Tuy nhiên, theo kiến nghị của một số tổ chức, cá nhân được công bố cho biết việc giải ngân của các ngân hàng cho các hợp đồng của cơ sở với nông dân mua máy rất chậm, hầu như chưa tiếp cận được nguồn vốn vay và hỗ trợ lãi suất, không biết khi nào có vốn vì chưa có ngân sách (như ngân hàng ở Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long...). Thậm chí một số chi nhánh ngân hàng nông nghiệp cho biết không hề biết chính sách hỗ trợ của Chính phủ. Ngày 04/10/2011 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có văn bản gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chỉ đạo các chi nhánh ngân hàng nông nghiệp ở các địa phương triển khai thực hiện Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ để người mua máy móc, thiết bị giảm tốn thất sau thu hoạch sớm được hưởng chính sách của Chính phủ và ngay sau đó Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có văn bản số 7995/NHNN-TD ngày 12/10/2011 gửi Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đề nghị báo cáo kết quả thực hiện, những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân, đề xuất, kiến nghị về thực hiện Quyết định 63 của Thủ tướng Chính phủ.
Trên đây là những nét chính về tình hình cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp và các cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp/.

CỤC CHÊ BIẾN, THƯƠNG MẠI
NÔNG LÂM THUỶ SẢN VÀ NGHỀ MUỐI

Download tài liệu tại đây:


Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2011

DONWLOAD TÀI LIỆU THAM LUẬN TẠI FESTIVAL LÚA GẠO VIỆT NAM - SÓC TRĂNG 2011

LUAGAO - Giới thiệu tài liệu tham luận tại Festival Lúa gạo Việt Nam lần II - Sóc Trăng 2011
Trong khuôn khổ Festival Lúa gạo Việt Nam lần II - Sóc Trăng 2011. Chúng ta có 02 cuộc hội thảo.
- Hội thảo 01: Định vị thương hiệu lúa gạo Việt Nam - Gạo Việt Nam ai bán, ai mua?
- Hội thảo 2: Việt Nam - Con đường phát triển lúa gạo chất lượng cao
Tất cả tài liệu các bạn donwload theo link dưới. LUAGAO sẽ tiếp tục cập nhật các bài tham luận trong thời gian sớm nhất:

Lúa gạo Việt Nam: Năng suất cao, tổn thất lớn

LUAGAO - Lúa gạo Việt Nam: Năng suất cao, tổn thất lớn

Lúa gạo Việt Nam có giống tốt, năng suất thuộc loại cao nhất thế giới, nhưng tổn thất sau thu hoạch lớn gấp 2-3 lần so với Ấn Độ, Nhật Bản…

Đó là nhận định chung tại các cuộc hội thảo khoa học trong khuôn khổ Festival Lúa gạo Việt Nam lần hai ở tỉnh Sóc Trăng (từ ngày 8 đến 11-11).

Lúa ở nhiều địa phương ĐBSCL đạt năng suất bình quân 7 tấn/ha/vụ, được cho là cao nhất thế giới. Đặc biệt, giống OM6976 được đưa vào khảo nghiệm ở nhiều tỉnh ĐBSCL đạt năng suất 9-11 tấn/ha/vụ mà Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Giống-Sản phẩm cây trồng vùng Nam Bộ đánh giá “có thể coi là sự đột phá về năng suất”.

Trong 3 năm từ 2008 đến 2011, ở ĐBSCL, có hàng trăm giống lúa lai tạo từ các cơ sở nghiên cứu đưa ra khảo nghiệm và đã được phép sản xuất đại trà 31 giống, sản xuất thử 48 giống. Ước tính, diện tích sản xuất giống mới mỗi năm đạt 600.000 – 800.000 ha.

Trong đó, khoảng 90% giống lúa đến từ Viện Lúa ĐBSCL và nơi đây đã chọn được những giống lúa ngắn ngày giàu chất sắt, kháng sâu bệnh và năng suất cao, thích nghi vùng nhiễm phèn mặn. Viện Nghiên cứu Duyên hải Nam Trung Bộ có giống chịu hạn, trồng ở Tây Nguyên đạt năng suất 7 tấn/ha/vụ; trồng ở Nam Trung Bộ đạt 6,5 tấn/ha/vụ.

Thành công trong công tác giống còn phải kể đến việc phổ biến rộng rãi cho nông dân với chủ trương khuyến khích cộng đồng làm giống. Hạt giống đầu dòng từ các cơ sở nghiên cứu chỉ đáp ứng 3 – 5% diện tích gieo trồng, nhưng ở tỉnh An Giang, 90% diện tích gieo sạ sử dụng giống tương đương xác nhận, nhờ hàng trăm tổ và hộ nông dân sản xuất giống.

Mất hơn 10.000 tỷ đồng/năm

TS Phạm Văn Tấn ở Phân viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch cho biết, ĐBSCL có mức tổn thất sau thu hoạch lên tới 13,7%, trong khi Ấn Độ có tỷ lệ 6%, Nhật Bản 3,9-5,6%. Tổn thất lớn ở 2 công đoạn: sấy 4,2% và tồn trữ 2,6%.

Tổng sản lượng lúa của ĐBSCL năm 2011 là 23 triệu tấn; tổn thất ở hai khâu này là gần 1,6 triệu tấn. Với giá 7.000 đồng/kg, số tiền mất là hơn 10.000 tỷ đồng.

Tổn thất từ sấy còn dẫn tới tổn thất trong xay xát ở mức cao 3%. Lúa không được sấy đúng kỹ thuật, không đạt độ ẩm cần thiết 13-14% nên khi xay xát, hạt gạo nguyên và trắng thu được rất thấp. Một nghiên cứu của Đại học Nông lâm TPHCM cho thấy, lúa có độ ẩm 14% khi xay xát sẽ được 50% gạo nguyên, nhưng nếu độ ẩm 16% thì gạo nguyên chỉ còn 34%. Hiện nay, lúa sấy đúng kỹ thuật của ĐBSCL chỉ khoảng 38% tổng sản lượng.

TS Tấn cho biết, quy trình công nghệ sau thu hoạch ở ĐBSCL hiện nay là quy trình ngược. Lúa thu hoạch xong được nông dân và thương lái phơi sấy sơ qua, đem bán cho doanh nghiệp xay xát, lau bóng, khi đã thành gạo rồi mới tiếp tục sấy đến độ ẩm 14% để đóng bao tiêu thụ. Tình trạng này kéo dài có nguyên nhân ở công nghệ sấy lúa lạc hậu.

ĐBSCL sử dụng lò sấy tĩnh vỉ ngang và sấy đứng, không thể sấy được lúa có độ ẩm trên 30%, mà hầu hết lúa hè thu ở ĐBSCL có độ ẩm rất cao lại cần sấy trong thời gian ngắn vì gieo sạ đồng loạt để tránh rầy và thu hoạch trong mùa mưa. TS Tấn đề nghị “cần công nghệ sấy lúa mới”.

Theo nhiều chuyên gia, cần tổ chức lại chuỗi cung ứng sau thu hoạch thật gọn và hiệu quả. Trong đó, huấn luyện cũng như đầu tư cho nông dân và thương lái để họ có khả năng sấy lúa đến độ ẩm 18-25% là rất quan trọng, sau đó doanh nghiệp sấy tiếp đạt độ ẩm 14% trước khi đưa vào xay xát.

Theo: 24h.com.vn

Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011

VIDEO LỄ KHAI MẠC FESTIVAL LÚA GẠO VIỆT NAM LẦN II - SÓC TRĂNG 2011

LUAGAO - Video Lễ Khai Mạc Festival Lúa gạo lần II - Sóc Trăng 2011

LỄ BẾ MẠC

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011

LUẬN VĂN "THANH LỌC TÍNH CHỐNG CHỊU MẶN CỦA MỘT SỐ GIỐNG LÚA CAO SẢN NGẮN NGÀY TẠI VIỆN LÚA ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG"

LUAGAO - GIỚI THIỆU LUẬN VĂN "THANH LỌC TÍNH CHỐNG CHỊU MẶN CỦA MỘT SỐ GIỐNG LÚA CAO SẢN NGẮN NGÀY TẠI VIỆN LÚA ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG" TÁC GIẢ DƯƠNG KIM LIÊN, ĐH NÔNG LÂM TP.HCM 2007 - 2011
DOWNLOAD TẠI ĐÂY