Cá c doanh nghiệp đang tích cực sản xuất để cung cấp phân bón cho sản xuất vụ đông xuân. |
Thứ Hai, 19 tháng 12, 2011
Thị trường phân bón: Vẫn lo chuyện giá tăng, hàng giả
Thứ Năm, 8 tháng 12, 2011
ĐBSCL: Phát triển cánh đồng mẫu lớn: Nông dân giảm chi, bội thu
LUAGAO - Việc mở rộng cánh đồng mẫu lớn là xu hướng sản xuất lúa tất yếu trong thời gian tới, cần tiếp tục mở rộng, không phải đắn đo.
Thu hoạch lúa trên cánh đồng mẫu lớn ở Long An. |
Thứ Năm, 1 tháng 12, 2011
Thời vụ, cơ cấu giống lúa ĐX tại Nam Trung bộ
LUAGAO - Các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ (DHNTB) sản xuất nông nghiệp và dịch vụ vẫn chiếm ưu thế. Đây là vùng thường xuyên gánh chịu những đợt thời tiết khí hậu khắc nghiệt đã ảnh hưởng rất lớn đến SXNN. SX lúa gạo có tầm quan trọng đặc biệt đảm bảo ANLT, ổn định đời sống cho người dân trong vùng.
Sản xuất lúa vụ đông xuân ở Nam Trung bộ có nhiều lợi thế như thời gian sản xuất kéo dài từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau nên cây lúa có điều kiện tích sinh trưởng và lũy chất khô vào các bộ phận kinh tế để đạt năng suất cao. Trong khi nền nhiệt độ tăng dần từ đầu vụ đến cuối vụ, biên độ nhiệt ngày và đêm chênh lệch nhau khá cao từ 6-12oC; cường độ ánh sáng dồi dào, nhất là vào cuối vụ; cường độ bốc hơi nước thường thấp hơn vụ hè thu đã giúp cho cây lúa tích lũy chất khô về hạt rất tốt, khả năng đạt năng suất cao nhất trong năm là có cơ sở.
Tuy vậy, thực trạng sản xuất lúa vụ đông xuân tại các tỉnh trong vùng thường không ổn định, nhiều nơi mất mùa cục bộ, cụ thể kết quả điều tra tình hình sản xuất lúa trong 11 năm từ 2000-2010 tại các tỉnh trong vùng cho thấy số vụ đông xuân năng suất thấp và bấp bênh như sau: Đà Nẵng có 5/11 vụ, Quảng Nam 3/11 vụ, Quảng Ngãi 4/11 vụ, Bình Định 5/11 vụ; Phú Yên 4 /11 vụ và Khánh Hòa 7/11 vụ.
Nguyên nhân chính là do một số địa phương còn sử dụng cơ cấu 3 vụ lúa/năm nên đã co kéo về thời gian, hoặc cơ cấu 2 vụ lúa/năm nhưng do bố trí không đúng lịch thời vụ gieo sạ, thường nôn nóng đẩy thời vụ đông xuân lên sớm để kịp sạ lúa vụ 3 và sử dụng không đúng cơ cấu giống lúa gieo sạ theo từng trà, giống lúa ngắn, trung ngày lại gieo cấy sớm vào trà đầu vụ (tháng 12) nên khi cây lúa vào giai đoạn làm đòng, trổ bông luôn gặp thời tiết bất lợi như nhiệt độ thấp, mưa phùn đã ảnh hưởng lớn đến năng suất cuối cùng.
Mặt khác còn có nguyên nhân trực tiếp làm ảnh hưởng đến năng suất lúa vụ đông xuân tại các tỉnh trong vùng đó là:
- Mưa muộn trong tháng 12 của năm trước, do mưa tập trung có khi hình thành lũ sớm đã gây ảnh hưởng đến trà gieo sớm sẽ làm trôi dạt giống thời điểm gieo sạ và ức chế sinh trưởng phát triển cây lúa thời kỳ cây con.
- Thời tiết giá lạnh từ tháng 1 đến 15/3, do nhiệt độ xuống thấp dưới 18-20oC, ẩm độ không khí tuyệt đối thấp < 55% và kết hợp mưa phùn đã ảnh hưởng đến trà lúa sớm làm đòng, trổ bông từ tháng 2 đến trước 10/3 sẽ gây nên tỷ lệ lép cao, thoái hóa đầu bông và hạt lửng nhiều dẫn đến năng suất thấp.
- Hạn hán diễn ra mạnh từ tháng 2 đến tháng 5, nặng nhất là từ tháng 2-5. Hạn kết hợp nhiệt độ tăng nhanh trên 30oC đã làm cạn kiệt nguồn nước tưới cho lúa. Hạn hán cũng tạo nên môi trường nắng ẩm là một trong những điều kiện rất thích hợp cho rầy nâu, rầy lưng trắng có cơ hội phát triển nhanh và có nguy cơ lan rộng thành dịch gây hại lớn.
Từ thực tiễn sản xuất lúa trong nhiều năm qua, các tỉnh trong vùng đã đồng loạt chuyển đổi hầu hết diện tích từ 3 vụ lúa/năm bấp bênh sang trồng 2 vụ/năm ăn chắc. Nhờ việc bố trí lại thời vụ gieo cấy và sử dụng cơ cấu giống lúa hợp lý, nên sản lượng lúa 2 vụ lúa/năm vẫn đạt cao từ 11-13 tấn/năm, tương đương sản lượng lúa gieo cấy 3 vụ lúa/năm, nhưng lại giảm được gần 1/3 chi phí đầu tư và hiệu quả kinh tế tăng cao. Từ những căn cứ có cơ sở khoa học và thực tiễn nêu trên nên khung thời vụ và cơ cấu giống lúa sản xuất vụ đông xuân 2011-2012 tại các tỉnh trong vùng như sau:
1. Thời vụ gieo sạ
- Đà Nẵng: lúa trổ bông an toàn từ ngày 20/3-5/4; thu hoạch lúa trước 30/4. Thời vụ gieo sạ từ ngày 20/12 và chậm nhất 10/1.
- Quảng Nam: lúa trổ bông an toàn từ ngày 20/3 đến 5/4; thu hoạch lúa từ ngày 25/4 đến 5/5. Thời vụ gieo sạ từ ngày 25/12 và chậm nhất 5/1.
- Quảng Ngãi: lúa trổ bông từ ngày 20/3 đến 5/4; thu hoạch lúa từ ngày 25/4 đến 5/5. Thời vụ gieo sạ từ ngày 25/12 và trà muộn nhất 10/1.
- Bình Định:
+ Cơ cấu 2 vụ lúa/năm: lúa trổ bông an toàn từ 15/3-30/3 và thu hoạch từ 15-30/4. Thời gian gieo sạ ngày 25/12 và trà muộn nhất 10/1.
+ Cơ cấu 3 vụ lúa/năm: lúa trổ bông từ 15/2-30/2. Thời gian gieo sạ từ 05/12-15/12 và thu hoạch từ 25/3-5/4.
- Phú Yên: lúa trổ bông an toàn từ 10/3-25/3 và thu hoạch từ 15-30/4. Thời gian gieo sạ từ ngày 20-30/12 và muộn nhất 5-10/1.
- Khánh Hòa: lúa trổ bông an toàn từ 10/3-25/3 và thu hoạch từ 10-25/4. Thời gian gieo sạ từ ngày 10-30/12 và chậm nhất 5/1.
2. Cơ cấu giống lúa
- Đà Nẵng: gieo sạ các giống lúa chính: NX30, Xi23. Giống bổ sung TBR45, HT1, Q5, Khang dân đột biến.
- Quảng Nam: gieo sạ các giống lúa chính Xi23, X21, TBR45, CH207, HT1, Q.Nam1; các giống lúa lai Nhị ưu 838, BiO404. Giống lúa bổ sung: NP12, NP16, TBR1, ĐT34, BC15, SH63, Q5, ĐV108, KD18 đột biến và TH3-3.
- Quảng Ngãi: gieo sạ các giống lúa chính: Q5, Khang dân đột biến, ĐV108, ĐH99-81, ĐH815-6, TBR1, ML48, HT1, ĐT34; các giống lúa lai: Nhị ưu 838, TH3-3, Syn6. Các giống lúa bổ sung: VS1, NX30, Xi23, BM9855, BTE1, BIO404.
- Bình Định:
+ Cơ cấu 2 vụ lúa/năm: các giống lúa chính: ĐV 108, ĐB6, Khang dân đột biến, SH2; lúa lai Nhị ưu 838. Các giống lúa bổ sung: TBR1, Q5, VTNA1, BiO404, D.ưu527, BTE1, N.ưu 69.
+ Cơ cấu 3 vụ lúa/năm: các giống lúa chính: ĐV 108, ĐB6, Khang dân đột biến, SH2; lúa lai Nhị ưu 838. Các giống lúa bổ sung: TBR1, ML202, ML214, ML48, HT1, VTNA1, TH3-3 PAC 807.
- Phú Yên: các giống lúa chính: ML202, ML201, ĐV108, Khang dân đột biến, OM6162, OM4088; các giống lúa lai: BiO404, Syn6, PAC807. Các giống bổ sung: ML68, ML48, TH41, HT1, TH6, ML216, ĐT34.
- Khánh Hòa: các giống lúa chính: TH6, ML202, TH41, TH6, ĐT34, VS1, ML48, HT1, ĐV108, Khang dân đột biến. Các giống lúa bổ sung: ML214, TH41, ML216.
3. Một số lưu ý trong thâm canh
Trong sản xuất lúa vụ đông xuân tại các tỉnh Nam Trung bộ cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Tiếp tục cải tiến thời vụ gieo cấy để lúa đông xuân làm đòng và trổ bông an toàn trong thời tiết nắng ấm. Các tỉnh phía bắc DHNTB gồm TP. Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và các huyện phía bắc tỉnh Bình Định cần cho lúa trổ bông an toàn từ ngày 20 tháng 3 trở đi để tránh gặp lạnh, nhiệt độ thấp dưới 22oC.
- Cần sử dụng cơ cấu giống lúa thuần ngắn, trung ngày, năng suất cao, chất lượng khá, ít nhiễm sâu bệnh, thích ứng rộng phù hợp gieo cấy cả 2 vụ đông xuân và hè thu để thu hoạch gọn trước 15/9 nhằm tránh gió bão, lũ lụt.
- Đẩy mạnh sản xuất lúa lai, nhất là các giống lúa lai ngắn ngày, năng suất cao, chất lượng gạo tốt, com ngon. Phấn đấu tăng dần diện tích lúa lai gieo cấy trong vùng từ 15-20% tổng diện tích để nâng cao sản lượng lúa nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ.
- Xây dựng các vùng sản xuất lúa giống tập trung hàng hóa kể cả giống lúa thuần và giống lúa lai để chủ động hạt giống và phục vụ sản xuất vụ mùa tại các tỉnh miền Bắc.
- Thực hiện chương trình quản lý dịch hại tổng hợp và chương trình 3 giảm 3 tăng trong thâm canh tăng năng suất lúa.
- Đưa nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, sử dụng các loại phân bón hỗn hợp NPK, phân nén để bón ruộng, kết hợp bón phân hữu cơ vi sinh và bón vôi để nâng cao độ phì đất lúa tại các tỉnh trong vùng.
- Cần tăng cường công tác quản lý nhà nước về sản xuất, chứng nhận chất lượng và kinh doanh giống cây trồng nói chung, giống lúa nói riêng tại các tỉnh trong vùng.
(Báo NNVN)
Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2011
TÌNH HÌNH CƠ GIỚI HÓA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HIỆN NAY VÀ CÁC CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐẦU TƯ MÁY MÓC, THIẾT BỊ, VẬT TƯ PHỤC VỤ SẢN XUẤT NN
Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2011
DONWLOAD TÀI LIỆU THAM LUẬN TẠI FESTIVAL LÚA GẠO VIỆT NAM - SÓC TRĂNG 2011
Lúa gạo Việt Nam: Năng suất cao, tổn thất lớn
Đó là nhận định chung tại các cuộc hội thảo khoa học trong khuôn khổ Festival Lúa gạo Việt Nam lần hai ở tỉnh Sóc Trăng (từ ngày 8 đến 11-11).
Lúa ở nhiều địa phương ĐBSCL đạt năng suất bình quân 7 tấn/ha/vụ, được cho là cao nhất thế giới. Đặc biệt, giống OM6976 được đưa vào khảo nghiệm ở nhiều tỉnh ĐBSCL đạt năng suất 9-11 tấn/ha/vụ mà Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Giống-Sản phẩm cây trồng vùng Nam Bộ đánh giá “có thể coi là sự đột phá về năng suất”.
Trong 3 năm từ 2008 đến 2011, ở ĐBSCL, có hàng trăm giống lúa lai tạo từ các cơ sở nghiên cứu đưa ra khảo nghiệm và đã được phép sản xuất đại trà 31 giống, sản xuất thử 48 giống. Ước tính, diện tích sản xuất giống mới mỗi năm đạt 600.000 – 800.000 ha.
Trong đó, khoảng 90% giống lúa đến từ Viện Lúa ĐBSCL và nơi đây đã chọn được những giống lúa ngắn ngày giàu chất sắt, kháng sâu bệnh và năng suất cao, thích nghi vùng nhiễm phèn mặn. Viện Nghiên cứu Duyên hải Nam Trung Bộ có giống chịu hạn, trồng ở Tây Nguyên đạt năng suất 7 tấn/ha/vụ; trồng ở Nam Trung Bộ đạt 6,5 tấn/ha/vụ.
Thành công trong công tác giống còn phải kể đến việc phổ biến rộng rãi cho nông dân với chủ trương khuyến khích cộng đồng làm giống. Hạt giống đầu dòng từ các cơ sở nghiên cứu chỉ đáp ứng 3 – 5% diện tích gieo trồng, nhưng ở tỉnh An Giang, 90% diện tích gieo sạ sử dụng giống tương đương xác nhận, nhờ hàng trăm tổ và hộ nông dân sản xuất giống.
Mất hơn 10.000 tỷ đồng/năm
TS Phạm Văn Tấn ở Phân viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch cho biết, ĐBSCL có mức tổn thất sau thu hoạch lên tới 13,7%, trong khi Ấn Độ có tỷ lệ 6%, Nhật Bản 3,9-5,6%. Tổn thất lớn ở 2 công đoạn: sấy 4,2% và tồn trữ 2,6%.
Tổng sản lượng lúa của ĐBSCL năm 2011 là 23 triệu tấn; tổn thất ở hai khâu này là gần 1,6 triệu tấn. Với giá 7.000 đồng/kg, số tiền mất là hơn 10.000 tỷ đồng.
Tổn thất từ sấy còn dẫn tới tổn thất trong xay xát ở mức cao 3%. Lúa không được sấy đúng kỹ thuật, không đạt độ ẩm cần thiết 13-14% nên khi xay xát, hạt gạo nguyên và trắng thu được rất thấp. Một nghiên cứu của Đại học Nông lâm TPHCM cho thấy, lúa có độ ẩm 14% khi xay xát sẽ được 50% gạo nguyên, nhưng nếu độ ẩm 16% thì gạo nguyên chỉ còn 34%. Hiện nay, lúa sấy đúng kỹ thuật của ĐBSCL chỉ khoảng 38% tổng sản lượng.
TS Tấn cho biết, quy trình công nghệ sau thu hoạch ở ĐBSCL hiện nay là quy trình ngược. Lúa thu hoạch xong được nông dân và thương lái phơi sấy sơ qua, đem bán cho doanh nghiệp xay xát, lau bóng, khi đã thành gạo rồi mới tiếp tục sấy đến độ ẩm 14% để đóng bao tiêu thụ. Tình trạng này kéo dài có nguyên nhân ở công nghệ sấy lúa lạc hậu.
ĐBSCL sử dụng lò sấy tĩnh vỉ ngang và sấy đứng, không thể sấy được lúa có độ ẩm trên 30%, mà hầu hết lúa hè thu ở ĐBSCL có độ ẩm rất cao lại cần sấy trong thời gian ngắn vì gieo sạ đồng loạt để tránh rầy và thu hoạch trong mùa mưa. TS Tấn đề nghị “cần công nghệ sấy lúa mới”.
Theo nhiều chuyên gia, cần tổ chức lại chuỗi cung ứng sau thu hoạch thật gọn và hiệu quả. Trong đó, huấn luyện cũng như đầu tư cho nông dân và thương lái để họ có khả năng sấy lúa đến độ ẩm 18-25% là rất quan trọng, sau đó doanh nghiệp sấy tiếp đạt độ ẩm 14% trước khi đưa vào xay xát.
Theo: 24h.com.vn
Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011
VIDEO LỄ KHAI MẠC FESTIVAL LÚA GẠO VIỆT NAM LẦN II - SÓC TRĂNG 2011
Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011
LUẬN VĂN "THANH LỌC TÍNH CHỐNG CHỊU MẶN CỦA MỘT SỐ GIỐNG LÚA CAO SẢN NGẮN NGÀY TẠI VIỆN LÚA ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG"
Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2011
Giải pháp sản xuất lúa thu đông bền vững
Nông dân xã Mỹ Đức, huyện Châu Phú (An Giang) canh nước lũ, giữ lúa TĐ |
Lúa vụ 3 có lợi
Trong những ngày lúa vụ 3 vị vỡ đê, ngập lụt, TS Chu Văn Hách, Trưởng bộ môn Kỹ thuật canh tác và các cán bộ của Viện lúa ĐBSCL đã đến các địa phương khảo sát, nắm rõ tình hình thực tế để tìm cách hỗ trợ nông dân địa phương. Về thuận lợi, phần lớn nông dân cho rằng: Nếu có hệ thống đê bao tốt, giá lúa cao, chi phí ít, chất lượng gạo TĐ lại tốt hơn so với HT thì làm lúa vụ này trúng lớn, vả lại có điều kiện cung cấp giống tốt cho vụ ĐX.
Kết quả điều tra hộ nông dân tại 4 tỉnh/thành có diện tích canh tác lúa vụ 3 cho thấy: 91% hộ làm lúa vụ 3 có lời, chỉ có 1% bị lỗ và 8% hòa vốn. Tính hiệu quả lúa vụ 3, năng suất bình quân đạt 4,22 tấn/ha (lúa khô), với giá lúa cao như hiện nay thì nông dân có lời trung bình khoảng 11 triệu đồng/ha/vụ.
Mức lời như vậy là hấp dẫn người dân, vì nếu không làm lúa vụ này thì khó có thể tăng thêm thu nhập. Tuy nhiên, khó khăn bất lợi mà nông dân thường gặp là giá công lao động, giá vật tư cao và không ổn định. Lũ về sớm nếu không có đê bao chắc chắn sẽ bị mất mùa.
Theo Sở NN-PTNT các tỉnh ĐBSCL, tổng diện tích lúa TĐ 2011 toàn vùng đạt 635.385ha, cao hơn năm trước khoảng 100.000ha. Trong 10 năm qua nông dân trong vùng đê bao đã an tâm sản xuất lúa vụ 3. Thế nhưng vụ TĐ năm nay gặp lũ lớn bất ngờ. Do sau nhiều năm không có lũ lớn nên nông dân chủ quan, không quan tâm việc gia cố đê bao. Tới khi lũ quá cao tràn bờ, xảy ra vỡ đê một số vùng lúa bị thiệt hại.
Các cán bộ nông nghiệp các tỉnh làm lúa TĐ nhận xét: Nông dân làm lúa vụ 3 năm nay bị thiệt hại cần được Nhà nước hỗ trợ. Nhưng nhìn toàn cục, lúa TĐ vẫn thắng lớn và rút ra được nhiều kinh nghiệm cho vụ TĐ những năm sau. Nhất là lo củng cố đê bao, cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống, nhất là sử dụng các giống ngắn ngày.
Để lúa vụ 3 ăn chắc
Theo các địa phương có diện tích lúa TĐ trong vùng, nếu được đầu tư đê bao đảm bảo chắc chắn, 7 tỉnh trong vùng lũ sẽ giữ ổn định diện tích vụ TĐ như năm 2011. Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí để xây dựng mới đê bao đảm bảo chất lượng, đủ cao trình, gia cố đê bao cũ và xây dựng các trạm bơm điện vừa và nhỏ để phục vụ cho tưới tiêu.
Ngành thủy lợi giúp tính toán lại cao trình của lũ, vì mỗi năm lũ một dâng cao hơn để có phương án nạo vét các hệ thống thoát lũ và gia cố đê điều cho phù hợp. Cần có liên kết vùng trong tránh lũ và ô nhiễm môi trường, liên kết giữa các tỉnh để tránh trường hợp tỉnh này xả lũ làm cho tỉnh khác bị ngập úng.
Về mặt khoa học, GS.TS Nguyễn Văn Luật cho rằng không thể phủ nhận việc sản xuất liên tục có thể làm giảm độ màu mỡ của đất nếu không có nước lũ vào ruộng như ở nơi có bờ đê bao khép kín ngăn lũ để tăng vụ. Tuy vậy thực tế trong gần chục năm qua bà con nông dân đã làm lúa 3 vụ năng suất vẫn tăng cao.
Các nhà khoa học Viện lúa ĐBSCL và Trường Đại học Cần Thơ góp ý: Nếu canh tác thuần 3 vụ lúa liên tiếp trong năm có thể làm xói mòn một số nguyên tố khoáng và hữu cơ, ảnh hưởng tới độ phì tự nhiên của đất. Tuy nhiên, hàng năm đất lúa vùng ĐBSCL đã được bù đắp lại một lượng phù sa rất lớn cộng với một lượng rơm rạ hoàn trả cho đất cũng khá lớn, nên khả năng thiếu các nguyên tố trung, vi lượng và hữu cơ không lớn lắm.
+ Trong 635.385ha lúa TĐ, đã thu hoạch 231.486ha, đạt gần 40%; chưa thu hoạch 396.334ha (trên 60%); diện tích lúa bị mất trắng do vỡ đê 7.565ha, chiếm 1,2%. Lúa bị thiệt hại tập trung ở 3 tỉnh An Giang 3.902ha; Đồng Tháp 2.073ha và Long An 481ha. + Năm 2010, ĐBSCL có hơn 520.000 ha lúa TĐ, góp phần làm tăng thêm sản lượng lúa cả năm lên 2 triệu tấn, trong đó riêng lúa vụ 3 (TĐ) toàn vùng có sản lượng 2 - 2,2 triệu tấn lúa/năm. |
Đề phòng dịch bệnh, trước hiện tượng thay đổi khí hậu toàn cầu và canh tác lúa liên tục nếu áp dụng biện pháp phòng trừ dịch hại không hợp lý trên đồng ruộng có thể gây ra nhiều thay đổi về tính đa dạng và phong phú của côn trùng và bệnh hại, phân bố về địa lý của các loài dịch hại, biến động quần thể, kiểu sinh học (biotype) của loài dịch hại, mối tương quan giữa dịch hại và cây lúa, hoạt động và mức độ phổ biến của các loài thiên địch, khả năng thay đổi độc tính của một số loài, và nhất là khả năng phát sinh nhiều loài dịch hại mới.
Do vậy, cần bố trí gieo sạ đồng loạt trên một cánh đồng theo lịch né rầy của ngành BVTV; chọn những giống ngắn ngày, năng suất cao, chất lượng tốt, thích hợp với từng địa phương, giảm thời gian cây lúa đứng trên đồng và bố trí thời vụ sao cho không làm ảnh hưởng tới vụ sau, đặc biệt là vụ ĐX.
Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2011
VFA không muốn chia nhỏ “chiếc bánh” xuất khẩu gạo
VFA muốn có điểm dừng chứ để tăng tới 200-300 DN thì giống như TPHCM, đông xe quá dẫn tới kẹt... Tuy nhiên, nếu “hãm” lại thì trật quy định luật pháp...
“Miếng bánh” quá... ngon
Theo tính toán của VFA, xuất gạo cả năm 2011 này sẽ vượt qua mốc 7 triệu tấn, thu về hơn 3 tỉ USD (năm 2010 cả nước xuất khẩu 6,89 triệu tấn gạo, thu về 3,25 tỉ USD).
Đáng lưu ý, theo VFA, trong 9 tháng vừa qua, giá xuất khẩu bình quân FOB đạt trên 520USD/tấn - tăng hơn 133USD/tấn so với cùng kỳ. Dù giá tăng nhưng từ nay đến cuối năm, giá lúa gạo khó mà tụt xuống, thậm chí sẽ có lợi cho cả quý I/2012. Bởi thị trường xuất khẩu biến động theo chiều hướng thuận lợi cho Việt Nam. Cụ thể, thị trường hiện đã hình thành 2 cấp. Một là nhu cầu gạo cấp thấp, giá rẻ với nguồn cung từ Ấn Độ. Hai là nhu cầu gạo cao cấp, giá cao từ Thái Lan, Việt Nam.
Với gạo cấp cao Thái Lan - nước tác động lớn đến giá gạo thế giới - áp dụng chính sách hỗ trợ nâng giá lúa sẽ khiến giá gạo tăng cao - đạt mức 750 - 800USD/tấn. Điều này chưa hẳn được nhiều nước nhập khẩu chấp nhận, bởi những nước này đa phần đang chịu lạm phát. Khả năng các nước đổ sang tìm nguồn cung từ Việt Nam là điều dễ nhận thấy. Với thị trường gạo cấp thấp, trung bình, Ấn Độ là nước cạnh tranh gay gắt với Việt Nam. Hiện Ấn Độ đã công bố bán 2 triệu tấn gạo ra thị trường thế giới. “Với sản lượng này thì Ấn Độ chưa đủ làm giảm nhiệt giá gạo, trừ khi họ tuyên bố bán nhiều hơn. Nhưng theo dự đoán của chúng tôi thì Ấn Độ khó có khả năng này, vì phải tăng cường chính sách ANLT” - ông Bảy cho biết.
Trong khi đó, Việt Nam ngoài việc có thể cạnh tranh thị phần gạo cấp cao với Thái Lan trong lúc họ biến động, thì có thể giành được cả thị trường gạo cấp thấp và trung bình ở gần địa giới, bởi cước vận chuyển thấp, chất lượng và nguồn hàng ổn định hơn Ấn Độ.
Bất ngờ ngoài toan tính
Bên cạnh sự khấp khởi, VFA lại đang dấy lên nỗi “băn khoăn”, khi đến thời điểm này, đã có 125 DN được Bộ Công Thương cấp phép đủ điều kiện xuất khẩu gạo theo Nghị định 109, chưa kể 4 DN liên doanh với nước ngoài. Đáng lưu ý, trong số đó có 29 DN chưa bao giờ xuất khẩu gạo, đa phần làm ngành nghề khác, nhưng trước “miếng bánh” xuất khẩu gạo đã góp vốn liên kết với DN có kho chứa đáp ứng các điều kiện theo Nghị định 109.
Nhiều DN khác vẫn tiếp tục củng cố năng lực và nộp hồ sơ đăng ký xuất khẩu gạo. Thực tế này làm bất ngờ nhiều người. Bởi mục tiêu của Nghị định 109 là loại bỏ những DN nhỏ lẻ, không đủ năng lực, không đầu tư kho bãi, đầu tư cho nông dân nhưng mua bán “chụp giật” phá giá, gây hỗn loạn thị trường, làm ảnh hưởng uy tín gạo Việt Nam. Khi nghị định “hình hài”, VFA từng tin rằng với những quy định chặt chẽ đòi hỏi DN phải có vốn rất lớn thì sẽ chỉ còn dưới 100/262 DN đang xuất khẩu gạo.
Nên ngoài 125 DN đã được cấp phép, trước việc các DN tiếp tục nộp hồ sơ, ông Bảy đã không giấu giếm toan tính của VFA: “Quan điểm của VFA là phải có điểm dừng. Chứ lên tới 200-300 DN xuất khẩu gạo, lượng gạo có giới hạn. Nếu miếng bánh cứ chia nhỏ, mỗi DN chia nhau ít gạo để xuất thì sẽ càng làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận. Giống như tình trạng xe cộ ở TPHCM, phải tính toán lượng dân cư, đường sá để quy định bao nhiều đầu xe là vừa. Chứ vô đông quá, tắc đường thì hại nhiều hơn lợi!” - ông Bảy nói.
Tuy nhiên, nếu “người ta” tìm cách hãm và không cho DN đủ điều kiện đăng ký xuất khẩu gạo, lại vi phạm Luật DN và các quy định khác của pháp luật. Nên các cơ quan chức năng hiện đang loay hoay tìm giải pháp.
Theo: 24h.com.vn
Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2011
Giới thiệu phần mềm FertilizerChooser - Chương trình thông minh giúp nông dân sử dụng phân bón hiệu quả
- Thị trường phân bón hiện nay rất đa dạng và phong phú, gồm nhiều chủng loại. Tất nhiên giá thành cũng rất khác nhau. Mỗi loại phân bón, đều có đặc tính riêng, tùy thuộc vào thành phần dưỡng chất chứa bên trong mà nhà sản xuất chế tạo. Việc xác định công thức phân bón thích hợp cho từng loại cây trồng, trên từng vùng đất canh tác khác nhau cũng như chọn lựa dạng phân nào vừa đáp ứng đúng các yêu cầu trên vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhà nông, đó là việc làm mang tính thiết thực, đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong chương trình 3 Giảm 3 Tăng do ngành nông nghiệp khuyến cáo hiện nay.
- Biểu tượng chương trình sau khi cài đặt Chương trình Fertilizer Chooser sẽ giúp chúng ta thỏa mãn những yêu cầu trên. Các tiện ích trong chương trình:
- Đáp ứng đúng và đủ lượng phân cần dùng cho cây trồng, dựa trên công thức phân bón đã được xác định với hàm lượng dưỡng chất Đa lượng (Đạm, lân , Ka li ) Trung lượng (Ca, S) Vi lượng (Fe, Cu, Zn,...)
- Hạ chi phí giá thành sử dụng phân bón
- Tăng lợi nhuận cho nông dân
- Cùng một công thức phân bón, nhưng với nhiều dạng phân bón khác nhau, chương trình sẽ tìm ra loại phân nào hữu hiệu, so sánh giá thành sử dụng của các loại phân bón hiện có trên thị trường, từ đó khuyến cáo một giải pháp lựa chọn kinh tế nhất .
- Hướng dẫn cài đặt Sau khi download về, Giải nén file Fert_Generic.zip, bấm vào file Fert_Generic.exe để tiến hành cài đặt. Xuất hiện hộp thoại Name Setup, nhấn OK Trong hộp thoại Installshield Wizard, License Agreement, chọn Yes Cũng trong phần Installshield Wizard, Setup Type, có 2 cách chọn. Typical: Sẽ cài hầu hết các tính năng thông dụng. Custom: Cài theo tùy chọn. Theo mặc định, chúng ta chọn Typical.
Nhấn Next. Quá trình cài đặt sẽ diễn ra trong ít phút. Khi hộp thoại Name Setup: Completed. Quá trình cài đặt đã hoàn tất. Nhấn Close để kết thúc trình cài đặt. Lúc này, màn hình Desktop sẽ xuất hiện biểu tượng FertilizerChooser, nhấn đúp chuột vào, (hoặc vào Start/All Program/FertilizerChooser/FertilizerChooser) =================================
Hướng dẫn sử dụng
Unit Currency Unit (Đơn vị tiền tệ): Chương trình sử dụng đơn vị Dollar Mỹ (USD). Để chuyển sang đơn vị tiền Việt Nam, ta quy đổi tỷ giá vào thời điểm tính toán. Ví dụ, 1 US$ = 16.000. Đặt đơn vị là dong: Viet Nam .
Tiếp đến, đặt các thông số sau: Area Unit (Đơn vị diện tích): 1 ha = 1.0 hectare Recommendation Unit (Đơn vị khuyến cáo): 1 kg/ha = 1.0 kg/ha Để lưu lại thiết lập cho những lần sau, nhấn vào tab Save Thông tin về loại cây trồng các xác định công thức phân bón Crop/Farm Info: Thông tin về loại cây trồng các xác định công thức phân bón Crop: Thông tin về loại cây trồng các xác định công thức phân bón, ví dụ lúa, bắp lai, đậu xanh,...(Lưu ý, gõ tiếng Việt, không bỏ dấu).
Total Area: Diện tích đang canh tác. Ví dụ, 0.5ha ; 2ha;...
Target Amount : Lượng phân cần sử dụng để bón cho cây trồng với diện tích hiện canh tác (hay công thức phân). Ở đây, nhập giá trị theo hàm lượng nguyên chất: Đạm (N), Lân (P2O5), Ka li (K2O). Nếu cần tính đến thành phần bổ sung đa lượng (Ca, S) hay vi lượng (Fe, Cu, Zn, Mg,...), chọn tiếp vào ô other. Chương trình cho phép bổ sung thêm 3 ô để trống. Thực hiện xong yêu cầu, nhấn vào Tab Fertilizer Sources để chọn loại phân. Giao diện chương trình hiện ra, gồm một danh sách với các loại phân bón, liệt kê rõ thành phần đa lượng, trung vi lượng của từng loại phân. Muốn sử dụng loại phân nào, bấm vào ô check. Nếu muốn chọn tất cả, bấm vào Select All. Ở cột Type, có 3 loại. Liquid : Phân dạng chất lỏng (nước) Solid: Phân dạng chất rắn (dạng bột, hạt) Gas: Phân ở dạng thể khí.
Tiếp theo, ở cột Weight Unit (WU): Đơn vị trọng lượng. Phụ thuộc vào quy cách loại phân bón của nhà sản xuất. Chọn kg, lít,... Cột Price: Giá phân, nhập giá thực tế. Bảng Fertilizer Sources để chọn loại phân Xong, nhấn vào Caculate. Chương trình sẽ tự động tính toán và đưa ra kết quả. Trong những loại phân đưa ra, khuyến cáo nên sử dụng loại phân nào hiệu quả kinh tế nhất, có nghĩa giá thành phân bón thấp nhất. Tại bảng kết quả này, có các tùy chọn: - Coppy to Clipboard: Chép và dùng lệnh dán (paste, Ctrl V) vào Ms Excel - Save As: Lưu kết quả - Print: In trang này - Exit: Thoát khỏi chương trình
Trong danh sách đưa ra, có thể không có những loại phân thông dụng trên thị trường, bổ sung bằng cách chọn Insert Row, để thêm vào. Application Cost: Chi phí ứng dụng, Số tiền trên đơn vị diện tích.(CU/AU) Đồng/ha. Phần mềm miễn phí. Địa chỉ Download tại: http://www.irri.org/science/software/fertchooser.asp. Yêu cầu: Độ phân giải màn hình hợp lý: 800 x 600 pixels Dung lượng: 8,462 Mb, file nén. Để download được Chương trình này, đòi hỏi phải đăng ký thành viên để được cấp Account và Password. Thực hiện theo hướng dẫn. (Liên hệ với người viết để nhận Chương trình này) Tuy chưa gọi là nhất được, nhưng với phần mềm nhỏ gọn này, hy vọng rằng sẽ giúp ích được bà con nông dân và những người làm công tác nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp, một trợ thủ đắc lực. Sẽ còn nhiều sự hữu dụng từ chương trình này, trông chờ vào sự nghiên cứu tiếp của chúng ta.
Tôi download tại địa chỉ này: http://www.softepic.com/windows/graphic-apps/cad/fertilizer-chooser/
(Sưu tầm)
Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011
Giáo sư Lương Định Của - nhà tạo giống cây trồng nông nghiệp
LUAGAO - gởi tới Quý độc giả bài viết về Cố Giáo sư Lương Định Của, Người con Anh hùng của Sóc Trăng của TS Lê Hưng Quốc - Phó CT Hiệp Hội TM Giống Cây Trồng, Chủ tịch Hiệp hội Khí Sinh học VN
GS Lương Định Của và Phu Nhân |
Giáo sư Bác sỹ nông học Lương Định Của là một người con của Nam Bộ, sinh năm 1920 tại xã Đại nghĩa, huyện Long phú , tỉnh Sóc trăng. Sau khi đi tu nghiệp và đạt được học vị Tiến sỹ nông học ở Nhật bản 1952, Chính phủ Nhật đã mời Ông ở lại làm việc nhưng Ông vẫn cùng gia đình (phu nhân Giáo sư Lương Định Của là người Nhật bản) trở về phục vụ Tổ quốc dù lúc đó đất nước bị chia cắt thành 2 miền.
Trong điều kiện chiến tranh “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, Giáo sư Lương Định Của bắt tay vào những công việc đầu tiên góp phần xây dựng nền móng cho nền nông nghiệp VN hiện đại.
Đóng góp trước hết của Giáo sư Lương Định Của là trong lĩnh vực đào tạo cán bộ khoa học nông nghiệp, khi Ông trong cương vị Phó Giám đốc Học viện Nông Lâm Hà nội, Trường ĐH Nông nghiệp Hà nội, Viện Trưởng Viện Cây Lương thực , Cây thực phẩm (Tứ Lộc-Hải Dương).Lớp sinh viên đại học của chúng tôi khi ấy mới ra trường được tắm mình trong thực tiễn sản xuất, học các thao tác kĩ thuật trực tiếp ở Viện Lúa Tứ Lộc , các HTX nông nghiệp… đó là những trường học của những kĩ sư, kĩ thuật viên nông nghiệp trẻ tuổi. Thế hệ ấy sau này nhiều người đã trưởng thành những nhà khoa học có đóng góp xứng đáng như lớp thế hệ của PGS.TS Anh hùng Lao động Nguyễn thị Trâm… Nhiều lớp cán bộ nông nghiệp do Giáo sư đào tạo đã trở thành những cán bộ đầu đàn trong nhiều lĩnh vực khoa học nông nghiệp. Giáo sư có nhiều thế hệ học trò xuất sắc.
Giáo sư Lương Định Của là nhà tạo giống cây trồng nông nghiệp mang các thương hiệu Việt nam đầu tiên. Giống lúa Nông nghiệp I do Giáo sư Lương Định Của lai tạo từ giống Ba thắc(Sóc Trăng-Nam bộ) với Kun Ko (Nhật bản) là giống lúa VN đi vào sản xuất trên đồng ruộng từ những năm 60 của thế kỷ trước. Hàng loạt giống ưu thế lai như giống lúa chiêm 314( Đoàn kết X Thắng lợi), giống NN8-388, giống 75.1( 813X NN1), giống lúa mùa Sai Su bao, giống NN75.5, dưa lê, cà chua,khoai lang, dưa hấu không hạt, chuối, rau… mang tên “Giống Bác sỹ Của” lần đầu xuất hiện ở VN cùng với những ứng dụng kỹ thuật di truyền và tiến bộ kĩ thuật mới : kĩ thuật tam bội thể, tứ bội thể, chất kích thích sinh trưởng v.v…
Đặc biệt Giáo sư Lương Định Của đã đưa vào Nông nghiệp nước ta phương pháp “cấy ngửa tay Nhật bản” được hàng chục triệu người nông dân miền Bắc khi đó tiếp nhận và áp dụng tạo ra một cuộc cách mạng trong chuỗi kĩ thuật thâm canh lúa, thay đổi tập quán cấy úp tay hàng ngàn năm của nông dân VN. Giáo sư đã đề xướng ra mô hình canh tác “bờ vùng, bờ thửa” vẫn còn áp dụng đến ngày nay. Giáo sư đã ứng dụng một tiến bộ kĩ thuật có ý nghĩa to lớn phù hợp với sinh lý cây lúa: cấy nông tay(lúa phục hồi nhanh, đẻ nhanh, đẻ khỏe) đảm bảo mật độ, một trong ba yếu tố cơ bản của năng suất lúa. Như vậy, cùng với giống mới, các kĩ thuật mới này đã góp phần vào phong trào thâm canh tăng năng suất lúa, góp phần vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi. “Ruộng cấy chăng dây cây lúa thẳng hàng”. (Bài ca “Đường cày đảm đang “ –An Chung) đã trở thành bài ca nổi tiếng trong nông nghiệp thời chống Mỹ cứu nước.
Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản HCM đã lập một giải thưởng mang tên Lương Định Của, hàng năm xét trao cho 100 gương mặt tiêu biểu đại diện cho 13 triệu thanh niên nông thôn có những thành tích xuất sắc trong các lĩnh vực: sản xuất, kinh doanh, chuyển giao tiến bộ khoa học kĩ thuật , công nghệ, xây dựng nông thôn mới. Đó là những “ông chủ mới” năng động dám nghĩ dám làm trong phong trào thanh niên nông thôn thực hiện bốn mới( kĩ thuật mới, ngành nghề mới, thị trường mới, mô hình mới)
Quận Đống đa thủ đô Hà nội có một đường phố mang tên Ông. Tại ngã ba Phạm Ngọc Thạch-Lương Định Của có một dãy ki-ốt kinh doanh hoa tươi bốn mùa rực rỡ sắc màu tỏa hương thơm ngát như luôn tưởng nhớ tới Lương Định Của, một nhà nông học xuất sắc, người đi đầu trong lĩnh vực cải tạo giống cây trồng của VN.
Giáo sư Lương Định Của được bầu là đại biểu Quốc hội. Giáo sư là nhà khoa học Nông nghiệp đầu tiên được phong danh hiệu Anh hùng Lao động trong thời kỳ chống Mỹ và huân chương Lao động Hạng Nhất năm 1967, được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ đợt 1 năm 1996. Mấy chục năm Giáo sư đã đi xa nhưng những học trò của Giáo sư , hàng triệu nông dân VN vẫn đang áp dụng kiến thức và kỹ năng của Giáo sư truyền lại, luôn ở trong “cõi nhớ” của nông dân Việt nam.