- Lúa Thu Đông-Mùa 2009: Cơ bản thu hoạch xong, còn một ít diện tích lúa Mùa ở giai đoạn đòng trổ-chín.
- Lúa ĐX 2009-2010: Toàn vùng xuống giống được 1.566.303 ha (khu vực ĐBSCL: 1.464.312 ha, khu vực Đông Nam Bộ: 101.991 ha). Bao gồm giai đoạn mạ (172.161 ha), đẻ nhánh (750.737 ha); đòng trổ (481.509 ha), chín (104.480 ha), thu hoạch (57.416 ha). Cũng theo báo cáo ngày thì tình hình bệnh đạo ôn phát triển như sau:
+ Bệnh đạo ôn lá:Toàn vùng có 98.996 ha lúa bị nhiễm bệnh (tăng 19.533 ha so với tuần trước) với tỷ lệ bệnh phổ biến từ 5 đến 10%, nơi cao >20% với diện tích 1.181 ha. Các tỉnh có bệnh xuất hiện như Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Sóc Trăng, Hậu Giang, Tiền Giang, Cần Thơ, Trà Vinh…
+ Bệnh đạo ôn cổ bông: Toàn vùng có khoảng 2.179 ha nhiễm bệnh (gỉam 144 ha so với tuần trước), với tỷ lệ bệnh 5-10%. Bệnh xuất hiện ở các tỉnh Bạc Liêu, Long An, Đồng Tháp, Lâm Đồng, Sóc Trăng, Đồng Nai.
Theo dự báo của Trung tâm BVTV phía nam thì tình hình Bệnh đạo ôn sẽ tiếp tục phát sinh phát triển gây hại trên diện rộng ở hầu hết các tỉnh trong vùng và có khả năng gây hại nặng đối với những ruộng sạ dày, bón thừa phân đạm, sử dụng giống nhiễm (Jasmine, VD 20, HĐ 1, OM 2514...). Bà con Nông dân phải thăm đồng thường xuyên để phát hiện sớm bệnh đạo ôn lá và xử lý kịp thời bằng thuốc đặc trị, phun ngừa bệnh đạo ôn cổ bông trước và sau khi lúa trổ; khi ruộng đã bị nhiễm bệnh cần giữ nước tốt trên ruộng, không bón phân hoặc phun phân bón lá.
Để giúp bà con hiểu hơn về bệnh đạo ôn, đặc điểm phát sinh phát triển, dấu hiệu nhận biết. Hôm nay tôi xin trình bày đôi nét về bệnh đạo ôn và một số biện pháp phòng trị để bà con chủ động đối phó; nâng cao năng suất chất lượng.
Người ta phân làm hai loại bệnh đạo ôn: đạo ôn lá (tác hại trên lá) và đạo ôn cổ bông (tác hại trên bông)
1. Tác nhân và triệu chứng gây bệnh.
· Nguyên nhân: Do nấm Pirycularia oryzae gây ra.
· Bệnh gây hại trên tất cả bộ phận của cây Lúa: lá, đốt thân, cổ bông, cổ gié và hạt.
Hình 1: Triệu chứng ban đầu xuất hiện trên lá là những vết châm kim
Hình 2: Triệu chứng điển hình trên giống nhiễm nặng những vết hình mắt én
Hình 3: Triệu chứng bệnh trên cổ bông
2. Đặc điểm phát sinh, phát triển bệnh.
· Phụ thuộc nhiều vào yếu tố ngoại cảnh như nhiệt độ, ẩm độ do đó bệnh phát triển thất thường, bệnh xuất hiện và gây hại từ giai đoạn mạ đến khi trỗ chín
· Điều kiện thời tiết: bệnh hại nặng vào lúc trời mát, ẩm, có sương mù, gió mạnh.
· Ảnh hưởng bởi phân bón: bón nhiều N bệnh nặng, bón P hạn chế được bệnh (ở vùng phèn), bón K tuỳ thuộc vào lượng N.
· Ảnh hưởng của giống: ở ruộng trồng giống nhiễm, điều kiện thời tiết thuận lợi bệnh phát triển nặng.
· Ở những vùng lúa bị hạn, ở những vùng trồng lúa nương, biên độ nhiệt ngày đêm chênh lệch lớn, sương mù thì bệnh cũng phát triển và gây hại rất nặng.
3. Biện pháp phòng trừ
· Chọn giống kháng hoặc giống ít nhiễm.
· Vệ sinh đồng ruộng, đốt tàn dư sau khi thu hoạch, cày vùi.
· Sử dụng phân bón cân đối hợp lý.
· Giữ nước thường xuyên cho ruộng lúa nhất là khi có dịch bệnh.
· Theo dõi diễn biến của bệnh, đặc biệt chú ý các giống nhiễm. Khi bệnh phát sinh nên cho thêm nước vào ruộng, ngưng bón phân đạm, không phun phân bón lá và thuốc kích thích sinh trưởng, phun các loại thuốc đặc trị bệnh.
· Dùng các loại thuốc đặc trị bệnh đạo ôn
Hiện tại trên thị trường có nhiều hoạt chất đặc trị bệnh đạo ôn, và nhiều tên thương mại khác nhau. Hôm nay tôi xin giới thiệu với bà con một sản phẩm thuốc rất hiệu quả phòng trị đạo ôn, đó là TRIZOLE của Công ty CP BVTV SAIGON.
- TRIZOLE có ba dạng 20WP; 75WP; 75WDG; có hoạt chất là Tricycrazole chuyên trị đạo ôn cổ bông; và cũng trị được đạo ôn lá. Thuốc hấp thu qua lá và lưu dẫn vào cây nên vừa phòng bệnh và vừa trị bệnh.
- Liều lượng và cách thức sử dụng bà con đọc kỹ trên nhãn thuốc.
- TRIZOLE hiện có bán tại hầu hết các Đại lý trên toàn quốc.
- Ngoài ra một sô thuốc để phòng và trị đạo ôn bà con có thể phun xịt như Kisaigon 50ND; Lúa Vàng 20WP; Pysaigon 50WP,…
- Mọi vấn đề về kỹ thuật vui lòng liên hệ: Nguyễn Chí Công – Phòng Quảng Bá, Công ty CP BVTV SAIGON, DTDD: 0902 339 006.
Chúc thành công!












3.2- Triệu chứng thiếu hụt dinh dưỡng ở cây ca cao - Thiếu đạm: lá có màu xanh vàng hay xanh nõn chuối. Thiếu nặng lá rụng nhiều, năng suất giảm. Hiện tượng thiếu đạm thường xảy ra trên đất nghèo dinh dưỡng và bón không đủ lượng đạm cây cần. - Thiếu lân: lá chuyển màu xỉn, mép lá non ửng đỏ, thiếu nặng lá rụng và cành chết. - Thiếu kali: Mép lá chuyển màu vàng cam sau tới màu xám nâu và khô, lá rụng nhiều. - Thiếu magiê: phần thịt lá bị vàng và lan dần từ gân chính ra mép lá. - Thiếu canxi: lá héo vàng từ rìa lá sau lan vào gân chính. - Thiếu kẽm: các lá và chồi đầu cành không phát triển tốt (rụt đọt), lá không thể nở lớn. Hiện tượng thiếu kẽm cũng khá phổ biến trên các vùng ca cao nổi tiếng của thế giới.
3.3- Qui trình bón phân cho cây ca cao: Cây ca cao cần được cung cấp đầy đủ các nguyên tố đa, trung và vi lượng. Thiếu hoặc thừa một trong những yếu tố này đều ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển không bình thường của cây. Nhu cầu phân bón của ca cao tùy theo tuổi cây và năng suất. Ca cao kinh doanh cần bón nhiều phân hơn ca cao kiến thiết cơ bản. Năng suất ca cao càng cao, càng cần phải bón nhiều phân hơn. * Bón phân cho ca cao trong vườn ươm: - Bón lót 2 kg phân hữu cơ + 0,5kg compomix Đầu Trâu cho mỗi m2 liếp ương hoặc 0,2 m3 đất làm bầu trước khi gieo hạt. - Bón thúc bằng cách hòa tan 20-30 gam phân NPK-20-20-15+TE Đầu Trâu trong 10 lít nước, tưới định kỳ 2-3 tuần/lần. Phun phân bón lá Đầu Trâu 007 định kỳ 7-10 ngày/lần. * Bón phân cho ca cao kiến thiết cơ bản: - Bón lót cho mỗi hố trồng từ 10-15kg phân hữu cơ và 0,3-0,5kg lân Đầu Trâu trước trồng 10-15 ngày. - Bón thúc: Ca cao kiến thiết cơ bản cần nhiều đạm, lân, một ít kali và trung vi lượng để cây phát triển bộ rễ, thân lá. Phân bón cho cây ca cao trong giai đoạn kiến thiết cơ bản là phân NPK-20-20-15+TE hoặc 16-16-8+TE Đầu Trâu, lượng bón tuỳ theo tuổi cây như sau: Năm thứ nhất : 0,2-0,3kg/cây. Năm thứ hai : 0,5-0,6kg/cây Năm thứ ba : 0,6-0,8kg/cây. Lượng phân này chia làm 4 đợt vào đầu, giữa, cuối mùa mưa và 1 lần trong mùa khô. Cây ca cao kiến thiết cơ bản, mỗi cây chỉ để 1-2 thân chính và cắt bỏ những cành vượt, cành yếu, loại bỏ những chồi nằm dưới mắt ghép đối với vườn ca cao trồng bằng cây ghép. Đối với cây ca cao kinh doanh nên cắt tỉa cành vượt, cành sà, đồng thời cắt bỏ những cành yếu, cành khô, cành sâu bệnh mỗi năm 3 lần. * Bón phân cho cây ca cao kinh doanh:
Ca cao kinh doanh có nhu cầu kali cao nhất, đến đạm, lân và trung vi lượng. Ở Malayxia, phân bón được dùng phổ biến cho ca cao kinh doanh là NPK-12-12-17, NPK-15-15-6-4, NPK-10-10-15. Ở nước ta, ca cao được trồng chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long, Tây nguyên và miền Trung, do vậy phân bón thích hợp nhất cho ca cao kinh doanh ở những vùng đất này là Phân “Đầu Trâu Ca Cao”. Đây là phân bón Đầu Trâu chuyên dùng cho ca cao với hàm lượng: 12% N, 14% P2O5, 18% K2O và các trung vi lượng phù hợp; đặc biệt có bổ sung Penac P của Đức. Lượng bón thay đổi tùy theo loại đất, tuổi cây và năng suất, bón: 1,5-2,5 kg Đầu Trâu ca cao cho cây/năm, lượng phân trên chia ra bón làm 3 lần vào đầu, giữa và cuối mùa mưa. Do đặc điểm bộ rễ cây ca cao ăn nông (80% rễ tập trung ở tầng 0-30cm) nên cần bón phân trong lớp đất mặt. Rải phân bằng cách theo đường chiếu của vanh tán rồi vùi lấp để giảm bớt thất thoát do bay hơi, rửa trôi. Vào thời kỳ kinh doanh, cây đã giao tán, có thể chịu hạn và cho năng suất khá. Tuy nhiên đối với vùng Tây Nguyên, miền Trng và Đông Nam Bộ khi tưới 1-2 lần trong năm thì cây ca cao sinh trưởng và cho năng suất cao hơn nhiều. 4- Phòng trừ sâu bệnh hại ca cao: Cây ca cao có một số sâu bệnh hại nguy hiểm làm ảnh hưởng đến sinh trưởng, năng suất và chất lượng hạt ca cao. * Sâu hại: Sâu hại thường thấy xuất hiện trong vườn ca cao tập trung chủ yếu ở nhóm côn trùng chích hút thuộc 2 bộ cánh đều Homoptera và bộ cánh nữa Hemiptera đây là nhóm sâu gây hại chính gây hại mọi thời kỳ sinh trưởng của cây. - Sâu ăn lá ca cao chủ yếu vào ban đêm, ban ngày chúng ẩn náo ở gốc cây hoặc chuyển đi nơi khác. Trong đó có loài ăn lá rất mạnh làm cho vườn ca cao bị sơ xác trơ gân lá, sâu thường tấn công vườn ca cao năm trồng mới và giai đoạn kiến thiết cơ bản. Phòng trừ, khi sâu hại lá nhiều phun những loại thuốc như: Sherpa 25ND, Supracide 40EC, Polytrin 440ND phun ở nồng độ 0,2 0,3%. - Bọ xít muỗi (Helopeltis spp) thường chích vào chồi non hay lá non gây ra những vết thâm đen, lá non bị chính sẽ bị biến dạng sau đó chết khô. Trái lớn bị bọ xít muỗi chích thì nứt vỏ, sau đó bị thối; trái non bị chính thường bị thâm héo và khô đi. Cách phòng trừ: Khi mật số bọ xít phải phun thuốc phòng trừ vào lúc sáng sớm hay buổi chiều tối bằng thuốc Subatox 75EC, Polytrin 440ND với nồng độ 0,2-0,3%. - Rệp muội gây hại chủ yếu trên lá non, chồi non, quả non, chùm hoa…Khi lá non bị chích hút sẽ quăn queo, chùm hoa bị hại không phát triển, nếu quả bị chính phát triển không bình thường, quả ít hạt. Phòng trừ: Cắt bỏ các các chồi vượt không hiệu quả hạn chế nơi cư trú của rệp, nếu mật số cao phun các loại thuốc như: Pyrinex 20EC, Subatox 75EC, Suprathion 40EC với nồng độ 0,2-0,3% để trừ. - Rệp sáp (Pseudococus sp.), rệp vải xanh (Coccus viridis) thường gây hại trên cuống quả, trên bề mặt vỏ quả và trên các chồi lá non. Phòng trừ: Cần phát hiện kịp thời để phun thuốc phòng trừ như: Selecron 500ND, Supracide 40EC Confidor với nồng độ từ 0,2-0,3% để phun phòng trừ. Thời gian cách ly từ lúc phun lần cuối đến thu hoạch trái khoảng 3 tuần lễ. * Bệnh hại: Những bệnh hại nguy hiểm trên cây ca cao, trong giai đoạn vườn ươm như: - Bệnh lở cổ rễ (Rhizoctoni sp), bệnh thối cháy lá (Collectotrichum gloesponiodes), bệnh thối thân (Phytophthora sp.), bệnh thối ngọn (Fusarium spp, Collectotrichum sp), bệnh thối cuống lá (Rhizoctonia solani). Biện pháp phòng trừ, phát hiện sớm các cây bị bệnh loại ra khỏi vườn, nếu máy che vườn ươm quá dày nên tháo bớt cho vườn thông thoáng. Không để vườn quá ẩm. Khi bị bệnh nặng phun thuốc Zineb 75% ở nồng độ 0,3% và Oxyt Chlorur đồng 50% pha nồng độ 0,5% để phun hay tưới cho cây bị bệnh. - Bệnh thối thân và cành do nấm Ceratocystis fimbriata, bệnh chết ẻo do nấm Verticillium dahide, bệnh cháy lá do nấm Colletotrichum sp, bệnh thối đen rễ do nấm Rosellinia pepo, bệnh thối nứt cổ rễ do nấm Armillaria mellea. - Bệnh thối trái do nấm Phytophthora spp: Bệnh thối trái do nấm Phytophthora spp, gây hại phổ biến và nghiêm trọng nhất ở các nước trồng ca cao trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Bệnh làm khô và thối trái với tỷ lệ rất cao, thường từ 30-80% cá biệt có những cây bị nặng 100%, bệnh gây hại từ khi quả còn non đến khi chín. Cách phòng trừ, vệ sinh đồng ruộng là biện pháp đầu tiên phải thực hiện nhất là đối với các vườn đã có nguồn bệnh. Giảm bớt ẩm độ không khí trong vườn và phun thuốc Aliette 80WP với nồng độ 0,2-0,3%, Ridomil nồng độ 0,3% sau khi hoa đã nở, phun 3-4 tuần/lần đến khi đường kính trên 3mm. - Bệnh virus gây xoắn lá; biện pháp phòng là tiêu diệt các côn trùng truyền bệnh như loại bọ xít, bọ cánh tơ, rệp… bằng những loại thuốc nêu trên. Cần theo dõi vườn cây thường xuyên để phát hiện sâu bệnh kịp thời để liên hệ với cơ quan chuyên môn nhằm định danh và hướng dẫn cách phòng trị kịp thời. 5- Thu hoạch ca cao:
Chất lượng hạt ca cao chủ yếu phụ thuộc vào 3 yếu tố: giống, kỹ thuật chăm sóc và cách thu hái bảo quản, khi áp đúng kỹ thuật sẽ tạo ra được sản phẩm có chất lượng cao mang lại hiệu quả cao cho người sản xuất ca cao. Dưới đây là kỹ thuật thu hái và bảo quản để hạt đạt được chất lượng cao. Chỉ thu hoạch những quả đã chín, không thu quả xanh. Sau khi thu hoạch cần chế biến ngay không được để quá 4 ngày (dùng dao, kéo cắt cành để cắt cuống quả khi thu hoạch). Dùng 1 đoạn gỗ để đập vỏ quả lấy hạt đem đi cho lên men. Hiện tại ở thị trường tiêu thụ trong nước, bà con nông dân có thể sơ chế và bán cho các nhà máy chế biến ca cao hoặc các công ty chuyên thu mua để xuất khẩu. Công nghiệp chế biến ca cao ở nước ta đang phát triển, như các nhà máy chế biến ca cao ở Quảng Ngãi và TP.HCM hiện cũng chưa đủ nguyên liệu nên phải nhập nguyên liệu bột và bơ ca cao do trong nước sản xuất còn quá ít không đủ cung cấp cho thị trường nội địa. Hàng năm các nhà máy chế biến bánh kẹo, thức uống của Việt Nam phải nhập khoảng 1.000 tấn ca cao bột và một số ít bơ ca cao tương đương khoảng 2.700 tấn hạt ca cao khô. Thời gian gần đây giá ca cao liên tục biến động, nhưng mức giá thấp nhất cũng là 700USD/tấn và cao nhất có thể lên đến mức 3.000 USD/tấn. 