Cá Lóc (Channa striata) là đối tượng nuôi khá quan trọng, phổ biến và là nguồn thực phẩm tốt cho người tiêu dùng trong cả nước. Hiện nay, bên cạnh cá Lóc bông, cá Lóc đen là đối tượng được nuôi nhiều trong các ao, giai (vèo) và bè ở vùng ĐBSCL.
Hình. Cá Lóc đen (Channa striata Bloch, 1793)
Kỹ thuật ương nuôi cá Lóc thương phẩm
Ương cá giống
Ương trong giai
Cá Lóc sinh sản tự nhiên trong ao hồ, đầm lầy và ruộng lúa. Mùa vớt cá giống thường từ tháng 5 - 7. Dùng vợt , te xúc trong thời gian cá con tập trung thành đàn. Cá con bắt đem về được ương trong giai có kích thước 4 m x 2 m x 2 m, mật độ ương 50 - 70 con/m2. Cho cá ăn bằng cách nấu nguyên liệu thật nhừ và trộn với cá tươi xay nhuyển cùng với lòng đỏ trứng luộc chín. Cho cá ăn 3 - 4 lần/ngày. Trước khi cho ăn phải kiểm tra thức còn thừa hay thiếu để điều chỉnh cho phù hợp, định kỳ hai tuần trộn thêm Vitamin C vào thức ăn để phòng bệnh cho cá, 1 - 2 tuần phải vệ sinh giai ương 1 lần. Sau hai tháng ương cá có thể đạt trọng lượng dao động từ 20 – 25 g/con.
Hình. Giai ương cá Lóc
· Ương cá Lóc trong ao đất
Diện tích ao: 100 - 300 m2, ao sâu 0,8 – 1,2 m. Trước khi thả cá, ao cần tẩy dọn sạch, bón lót phân gây màu nước trước khi ương để gây động vật phù du làm thức ăn ban đầu, mỗi tuần cần bón thêm 1 lần phân hữu cơ. Mật độ cá ương dao động từ 30 - 40 con/m2. Từ ngày ương thứ 20 trở đi cho cá ăn bằng cá tạp, tép băm nhỏ. Cần cho cá ăn đều, no, đủ, cứ 10 - 15 ngày san thưa và lọc cá một lần để thu được cá giống đều cỡ và tốt nhất.
Nuôi cá Lóc thương phẩm
Nuôi cá Lóc trong giai đặt trong ao đất
· Mùa vụ nuôi
Do nguồn cá giống còn phụ thuộc khá nhiều vào tự nhiên, nên mùa vụ thả nuôi thường phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết hàng năm. Thông thường mùa vụ nuôi cá Lóc tập trung từ tháng 5 - 9, trong đó cá tập trung nhiều nhất vào các tháng 7 và 8.
· Quy cách giống và mật độ thả nuôi
Giống cá lóc chọn thả nuôi phải có kích cở đồng đều, khỏe mạnh, nhiều nhớt, không bị thương tích hay bệnh tật. Cở cá giống phải đạt từ 20 - 30g/con, mật độ thả dao động từ 50 - 80 con/m3 là tốt nhất.
· Thức ăn
+ Thành phần thức ăn
Cá Lóc là loài cá ăn động vật, thành phần thức ăn bao gồm nhiều loại động vật tươi sống như: cá, tép, ếch nhái... Trong quá trình nuôi, có thể tập luyện cho cá giống quen dần với các loại thức ăn tự chế biến từ cá nguồn nguyên liệu địa phương như cá tạp tấm cám, bắp, và Vitamin C (35 mg/kg thức ăn)...có hàm lượng protein lớn hơn 20 % .
+ Khẩu phần ăn: Khẩu phần thức ăn cho cá hàng ngày sẽ được định lượng cho phù hợp với các nhu cầu dinh dưỡng và tình hình sức khỏe ở các giai đoạn phát triển của cá có thể tóm tắt ở bảng sau:
Bảng. Khẩu phần thức ăn cho cá Lóc (% so với khối lượng cá thả nuôi/ngày)
Kích cỡ cá giống (g/con) | Khẩu phần thức ăn (%/W/ngày) |
< 10 10 - 20 20 - 30 30 - 50 50 - 100 > 100 | 10 - 12 8 - 10 5 - 8 5 - 8 5 - 8 5 |
+ Cách cho cá Lóc ăn
Thông thường ở thời điểm ban đầu thả giống, do kích thước cá còn nhỏ, thức ăn cần được xay nhuyễn, đến khi cá lớn, thức ăn có thể cung cấp trực tiếp vào lồng bè nuôi. Việc dùng sàn cho cá ăn được kẳng định mang lại hiệu quả cao trong quá trình nuôi.
Chăm sóc và quản lý
Hoạt động chăm sóc và quản lý ao nuôi cần phải được thực hiện thường xuyên. Các hoạt động này bao gồm: kiểm tra giai (hệ thống dây, lưới...) và tình hình sức khỏe của cá nuôi, vệ sinh giai tránh rong bám nhiều gây mùi hôi thối. Nhằm góp phần cải thiện môi trường nuôi, tậng dụng thức ăn thừa, người dân có thể thả thêm cá ăn phiêu sinh như: rô phi, hường….ở bên ngoài giai với mật độ dao động từ 2 – 3 con/m2 góp phần tạo cho môi trường nuôi luôn trong sạch và ổn định, cá nuôi có tỉ lệ sống và tăng trọng tốt nhất.
Thu hoạch
Để đạt kích thước thương phẩm, thời gian nuôi cá Lóc thường ít nhất là 6 tháng, thông thường là 7 - 8 tháng. Trọng lượng cá khi thu hoạch có thể đạt kích cở dao động từ 1,2 - 1,5 kg/con. Trước khi thu hoạch 1- 2 ngày không nên cho cá ăn nhằm hạn chế cá bị chết trong quá trình vận chuyển. Khi thu hoạch có thể dùng vợt nhằm hạn chế cá bị sây sát. Vợt thu hoạch cá phải không có gút, các phương tiện khác phải nhẳn. Sau khi thu hoạch có thể dùng ghe đục hoặc thùng chứa để vận chuyển.
Kỹ thuật nuôi cá Lóc trong ao đất
Kỹ thuật nuôi cá lóc ở ao đất chưa được phổ biến nhiều ở Việt Nam. Tuy nhiên ở một số nước Châu Á khác, nghề nuôi cá Lóc đã trở thành một hoạt động thông thường đối với nghề nuôi thủy sản nước ngọt.
Trong quá trình nuôi, để góp phần nâng cao năng suất, các giải pháp kỹ thuật thông thường cần được tuân thủ để chuẩn bị cho một ao nuôi như
Chuẩn bị ao nuôi
· Diện tích ao ít nhất dao động từ: 200 - 1000 m2, độ sâu: 1,5 – 2,4 m, nhiệt độ 23 – 32 0C, pH dao động từ 6,5 – 8,5, hàm lượng ammonium < 1 ppm.
· Ao được cải tạo, dọn dẹp môi trường xung quanh, lắp hang cua lổ mọi, cống bọng chắc chắn. Bờ bao phải cao hơn đỉnh lủ cao nhất trong năm ít nhất 0,5m. Dùng lưới chắn hoặc đăng tre cao 0,8 – 1 m để phòng tránh cá nhảy ra ngoài do ảnh hưởng của ngập lũ.
Mật độ thả nuôi
Mật độ nuôi dao động từ 20 - 30 con/m2, không nên nuôi quá dày ảnh hưởng đến sức lớn của cá. Mật độ nuôi tùy thuộc vào kích cở cá giống thả, có thể thực hiện theo bảng đề nghị như sau
Bảng. Mật độ nuôi cá Lóc trong ao đất
Kích thước cá giống (Cm) | Mật độ thả nuôi (con/m2) |
3 5 7 10 15 25 > 25 | 100 50 20 10 5 3 2 |
Cho ăn và quản lý chăm sóc
- Cung cấp thức ăn cũng giống như mô hình nuôi bè, khẩu phần ăn dao động từ 5 - 7 % trọng lượng cá/ngày. Không cho cá ăn quá thừa thức ăn.
- Dùng sàng để cho cá ăn, thuận lợi trong việc theo dõi sự phát triển của cá nuôi. Ngày cho cá ăn hai lần vào buổi sáng sớm và buổi chiều.
- Thường xuyên kiểm tra hệ thống công trình nuôi và hoạt động của cá. Theo dõi sự biến động chất lượng nước trong ao nuôi, cần giữ nước sạch, định kỳ 10 - 15 ngày thay nước một lần. Nếu có điều kiện thì cho nước lưu thông nhẹ nhàng và thường xuyên.
Phòng và trị bệnh cho cá nuôi
1. Để phòng bệnh cần định kỳ 10 - 15 ngày/lần sát trùng ao nuôi bằng vôi bột với liều lượng dao động từ 3 - 4 kg/100m2, vôi được hoà tan và tạt đều khắp ao.
Một số bệnh thường gặp
2. Bệnh gió: Triệu chứng khi cá nhiễm bệnh lồi mắt, thường bơi lờ đờ ở ven bờ. Dùng khoảng 200g lá trầu ăn, 200g cỏ mần trầu giã lấy nước trộn với 150 ml dầu lửa và trộn đều vào thức ăn để cho cá ăn, xác bã rãi đều xuống ao nuôi.
3. Bệnh đỏ xoang miệng : Dùng cỏ mực giã nát vắt lấy nước trộn thức ăn cho cá ăn, xác bã rãi xuống ao.
4. Bệnh ghẻ lở: Dùng Tetracyline trộn vào thức ăn cho cá ăn kết hợp với việc xử lý môi trường nước ao nuôi với vôi bột, BKC…..
Thu hoạch
Trước khi thu cần giảm mực nước ao nuôi còn khoảng 40 – 50 cm, lấy lưới kéo đánh bắt dần. Khi thu hoạch toàn bộ thì phải tát cạn. Chu kỳ nuôi có thể kéo dài 7 – 8 tháng, ít nhất là 6 tháng, trọng lượng cá lúc thu hoạch dao động từ 0,8 – 1 kg/con/6 tháng.
(Nguồn trung tâm khuyến nông An Giang)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét