Thứ Tư, 3 tháng 3, 2010

KỸ THUẬT NUÔI CÁ THÁT LÁT

1. Cá Thát Lát (Notopterus notopterus)

 

I. Đặc điểm sinh học của cá thát lát

 


height=228

 

 Cá Thát lát hay còn gọi là Asian knifefish, cá phân bố ở vùng: Ấn Độ, Thailand, Mianma, Lao, Cambodia, Malaysia, Indonesia, và Việt Nam. Chúng có khả năng sống hầu hết các thủy vực nước ngọt có thực vật thủy sinh phong phú, thường gặp chúng ở các cửa sông, ao, hồ ruộng, kênh rạch, sông ngòi. Cá có khả năng sống trong vùng nước lợ với nồng độ muối thấp.

             

Cá Thát lát là lòai cá có phẩm chất thịt ngon, thường được nhiều người dân vùng ĐBSCL ưa thích. Cá có thân dẹp bên. Lưng hơi nhô lên. Miệng hơi nhô ra. Rạch miện ngắn chỉ đến giữa ổ mắt hoặc bờ sau ổ mắt. Thân phủ vảy tròn. Đường bên hoàn toàn, chạy giữa thân. Cá có màu xám bạc, Phần lưng đậm hơn, phần bụng trắng bạc. Theo đánh giá của các nhà chuyên môn, cá thát lát có khả năng sống được trong các ao nước tỉnh, chịu được điều kiện chật hẹp, nước có hàm lượng Oxygen hòa tan thấp, pH thấp…do vậy, có thể phát triển nuôi cá thát lát đại trà trong nhiều lọai hình thủy vực.

 

1. Đặc điểm dinh dưỡng

 

              Cá thát lát là lòai cá ăn tạp gồm cả thực vật và động vật (cá con, côn trùng, tép), cá họat động mạnh về đêm. Bể nuôi cần thực vật lớn, nước nhẹ và acid với độ pH dao động từ 6 - 6.5 và độ cứng khoảng 30 ppm. Thức ăn thường là trùng sống, cá mồi, các lòai cá tạp và thức ăn tự chế biến từ các nguồn phụ phế phẩm nông nghiệp như rau xanh, bèo hoa dâu, cám, cua, ốc băm nhỏ.

 

2. Đặc điểm sinh trưởng

 

              Cá thát lát thường có kích thước nhỏ, tăng trọng thấp, thông thường cá sau 1 năm tuổi có chiều dài trung bình khỏang 16 cm và nặng từ 40 - 60 g/con. Tuy nhiên trong ao nuôi, cá có thể đạt 100 g/con sau 12 tháng tuổi.

 

3. Đặc điểm sinh học sinh sản

 

              Mùa vụ sinh sản của cá thường tập trung vào các tháng từ 6 - 8. Khi con đực và con cái thành thục cho vào bể lập tức chúng bắt cặp với nhau. Trong vòng những ngày đầu, chúng sắp xếp lại rong và chuyển chúng đến 1 góc bể. Trong điều kiện tự nhiên cá đẻ trên các vùng nông cạn và những thân, rễ tre chìm trong nước. Tới thời kỳ sinh sản, ống sinh sản lồi ra từ vùng huyệt của con cái. Ống này dài khoảng 1,25cm và đường kính 0.6cm. Con cái dùng ống này lướt qua lại trên đá để dọn sạch ổ đẻ. Tập tính chuẩn bị ổ đẻ của cá cái tiếp tục khoảng vài giờ cho đến khi con đực tấn công. Sau đó cả bố mẹ đều dọn tổ. Sau đó chúng bắt đầu cuộn tròn vào nhau và đẻ trứng. Cá đẻ nhiều đợt, mỗi đợt khoảng 10 -15 trứng. Nhìn chung sức sinh sản của cá Thát Lát thấp, bình quân dao động từ 12.000 - 20.000 trứng/kg cá. Sau khi con cái đẻ trứng trên ổ đã dọn sẳn, con đực bơi theo và thụ tinh trứng. Cả cá bố mẹ điều thay phiên nhau bảo vệ và chăm sóc trứng. Trứng sẽ nở trong vòng 6 ngày ở nhiệt độ 30 0C. Trong sinh sản nhân tạo, có thể sử dụng một số lọai hormone như: não thùy cá chép, HCG hay LHRHa để kích thích cá sinh sản với liều lượng như sau:

 

·       Não thùy cá chép: 5 - 10 mg/kg cá cái

·       Hay sử dụng liều kết hợp: 5 mg não + 3000 - 5000 UI/kg cá cái

·       HCG: 5000 - 10000 UI/kg cá cái

·       LH-RHa : 100 - 150 mg + 5 mg DOM/kg cá cái

 

Thông thường, trong họat động sản xuất giống, sử dụng 2 liều để kích thích cho cá sinh sản là tốt nhứt và hiệu quả cao nhứt. Mật độ ương cá tốt nhứt là 150 - 200 bột/m2. Trong quá trình ương, sử dụng lòng đỏ trứng đã luộc chín, kết hợp bột cá mịn và sửa đậu nành để cung cấp cho cá ương với khẩu phần dao động từ 10 - 30 %/trọng lượng/ngày.

 

II. Kỹ thuật nuôi cá thát lát thương phẩm

1. Chuẩn bị ao nuôi

             

Trước khi thả cá nuôi, ao phải được chuẩn bị, cải tạo theo các bước căn bản như sau

 

·       Dọn cỏ bờ, tát cạn nước, dùng rễ dây thuốc cá diệt cá tạp, cá dữ với liều lượng 0.2 - 0.3 kg/100m2

·       Sênh vét lớp bùn đáy còn khỏang 20 - 30 cm lớp bùn đáy ao nuôi, san lấp kín các hang hốc.

·       Dùng vôi bột bón xung quanh bờ ao và đáy ao để cải tạo hạ phèn, liều lượng từ 10 -15kg/100m2.

·       Bón phân chuồng (phân heo hay phân gà) để tạo nguồn thức ăn tự nhiên ban đầu cho cá giống với liều lượng 15 - 20 kg/100m2.

·       Sau đó phơi ao từ 2 - 3 ngày.

·       Cấp nước vào ao nuôi. Khoảng 3 - 4 ngày sau, nước có màu xanh đọt chuối thì bắt đầu thả cá ương. Cá ương sau 1 tháng tuổi tiến hành thu họach.

 

2. Mật độ cá thả nuôi

             

Mật độ cá giống thả nuôi ghép trong ao dao động từ 5 - 7 con/m2 là tốt nhứt.

Trong trường hợp nuôi thâm canh, có thể thả với mật độ 10 – 20 con/m2

 

3. Cơ cấu lòai thả nuôi ghép

 

Trong quá trình thả cá nuôi ở ao, có thể thả ghép thêm với một số lòai cá khác như sau: cá rô phi, cá sặc rằn, cá rô đồng hay cá hường hoặc cá tai tượng với tỉ lệ khỏang 30 - 50 % so với cơ cấu thả nuôi cá thát lát.

 

4. Quản lí hệ thống nuôi

 

·       Sử dụng thức ăn tự chế biến từ nguồn phụ phế phẩm nông nghiệp, kết hợp với thức ăn công nghiệp đặc biệt ở giai đọan ban đầu thả nuôi (1 tháng, giai đọan sau giống) với khẩu phần ăn dao động từ 5 - 7 %/trọng lượng thân/ngày. Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào lúc sáng và chiều. Lượng thức ăn cho cá nuôi sẽ được điều chỉnh theo sự tăng trọng của cá nuôi, sau mỗi tháng kiểm tra trọng lượng cá.

 

+ Thức ăn tươi sống như cá, tép vụn, cua hoặc ốc băm nhỏ kết hợp với chất kết dính như lá gòn hoặc CMC và Premix (1 - 2 %).

 

+ Thức ăn tự chế biến từ nguồn phụ phế phẩm nông nghiệp bao gồm

              - Bột cá      45 %

              - Cám         50 %

- Rau xanh  5 %

- Vitamine C  20 - 30 mg/kg thức ăn cho cá.

 

·       Quản lí về chất lượng nước hệ thống ao nuôi, đảm bảo hàm lượng dưỡng khí cho cá thả nuôi, đảm bảo môi trường nuôi không bị ô nhiễm. Thay đổi nước định kỳ 1 lần / 7 – 10 ngày là biện pháp căn bản góp phần cải thiện chất lượng môi trường nước ao nuôi.

·       Quản lí công trình nuôi, sớm phát hiện những hạn chế để có biện pháp khắc phục thích hợp.

 

5. Thu họach

 

Sau chu kỳ nuôi thương phẩm 6 - 8 tháng, có thể tiến hành thu hoạch, trọng lượng cá thu hoạch dao động từ 60 - 90 gram/con.

 

 

 

2. Cá Nàng Hai (Notopterus chitala)

 

 

height=252

 

 

Đặc điểm phân bố: vùng Ấn Độ, Thailand, Mianma, Lào, Cambodia, Malaysia, Indonesia, và Việt Nam

 

Chiều dài 60cm

Chiều dài bể 100cm

Thức ăn: Cá con, côn trùng, tép, thịt bò . . .

Nhiệt độ nước 24 - 280C

Bể nuôi riêng

 

Cá nàng hai hay còn gọi là cá còm (Featherfine fish) thường gặp ở nơi nước lặng có nhiều cây cỏ. Ở nước ta cá sống chủ yếu ở một số nhánh sông lớn đổ vào sông Mekong (thuộc Tây Nguyên ) và các thủy vực nước thuộc sông Cửu Long.

 

Cá có hình dáng bên ngoài rất giống với cá thát lát nhưng trên thân có nhiều đốm tròn đen vó viền trắng và phân bố dọc theo vây hậu môn. Cá có thân hình dẹp bên, cao, hủ vẩy tròn rất nhỏ. Viền lưng cong và nhô cao. Độ cong của lưng tăng dần theo sự lớn lên của cá. Đầu nhọn, miệng rộng hướng về phía sau ổ mắt. Vây lưng nhỏ và nằm ở giữa lưng. Vây hậu môn rất dài bắt đầu từ mép vây ngực kéo dài về phía sau và nối liền với vây đuôi nhỏ.

 

Cá có màu xám bạc, lưng sẫm hơn.  Cá trưởng thành có 4 -10 đốm đen, viền trắng nằm dọc phía trên vây hậu môn. Lúc cá còn nhỏ thân có 10 -15 sọc đen ngang thân. Khoảng 2 tháng tuổi phần dưới của các sọc này xuất hiện các đốm nâu tròn. Cá càng lớn, đốm càng rỏ nét trong khi các sọc mờ dần rồi mất hẳn.

 

Trong điều kiện tự nhiên, cá nàng hai sống ở tầng giữa và tầng đáy. Ban ngày cá thường ẩn nấp trong đám thực vật thủy sinh. Ban đêm cá hoạt động nhiều hơn, cá bơi lội chậm , nhẹ nhàng, vây hậu môn hoạt động liên tục như làn sóng. Cá thích sống môi trường có nhiều thực vật thủy sinh lớn , nước trung tính pH dao động từ 6,5 - 7. Cá thí nghiệm cho thấy cá có kích thướcvà trọng lượng nhỏ thì tiêu hao oxy lớn và ngược lại. Tiêu hao oxy trung bình của cá là 0.59 mgO­2/g/giờ ở nhiệt độ 28 - 29oC. nhiệt độ thích hợp cho cátừ 26 - 28oC. ở nhiệt độ 36oC, cá nhảy lung tung và cá lờ đờ, chết dần sau 5 phút. Ở nhiệt độ 14oC, cá bị hôn mê, tê cứng, lật ngang các mang, vây ngưng hoạt động.

 

Hệ tiêu hóa của cá gồm miệng, thực quản, dạ dày, ruột. Miệng trức, rộng, rạch miệng xiên kéo dài ra khỏi mắt, xương hàm trên phát triển. Răng nhiều, nhọn mọc trên hàm dưới trên phần giữa xương trức hàm, trên xương khẩu cái, lá mía và lưởi. Ngoài ra, còn có đám răng nhỏ mịntrên xương bướm phụ vì vậy chúng có thể bắt giữ, cắn xé con mồi. Thực quản ngắn, rộng và có vách hơi dài. Dạ dày hình chữ J có vách hơi dày. Ranh giới giữa ruột non và ruột già không phân biệt rỏ ràng.Tỉ lệ Li/Lo = 0.3 cho nên đây là loài ăn động vật (Nicolski, 1963)

 

Bể đẻ chứa 40 - 60 L và có nhiều thực vật thủy sinh, đá làm giá thể cho cá. Có thể thiết kế đá như một hang động cho cá vào đẻ. Mức nước sâu khoảng 10cm và nhiệt độ cố định khoảng 24.5oC. Khó phân biệt cá đực, cá cái. Tới mùa sing sản, cá đực trở nên vàng hơn, bơi rất quyến rủ và bắt đầu dùng thân dọn sạch vùng chuẩn bị đẻ. Trong sinh sản nhân tạo, lúc sinh sản, cá cái bơi đảo lộn dồn ép thành bụng đđẻ trứng dính vào các giá thể (gạch tàu, chậu hoa). Trong khi đó con đực bơi cuộn theovà thụ tinh trứng. Khi đẻ trứng xong, con cái rời khỏi trứng, lúc này nên bắt con cái ra khỏi bể. Con đực sẽ bảo vệ trứng, dồn trứng vào giữa và quạt nước cung cấp dưỡng khícho trứng. Số lượng trong một lần đẻ khoảng 100-150 trứng và đẻ thành nhiều đợt, mỗi đợt khoảng 10-15 trứng. Trong tự nhiên cá thường đẻ ở vùng nước cạn có thực vật thủy sinh. Tuỳ vào nhiệt độ, thời gian nở của trứng sẽ khác nhau ờ 24oC trứng sẽ nở 5-6 ngày. Trứng cá thuộc loại trứng lớn và dể bị nấm. Lúc này nên cho vào bể Methylene Blue với nồng độ 5 ppm. Cá bơi lợi tự do và bắt đầu ăn được luân trùng và ấu trùng artemia sau 2-3 ngày.

 

Cá có thịt thơm ngon, nên cũng thường được nuôi (nuôi tương tự như đối với cá thát lát) trong các ao nước tĩnh để làm thực phẩm tiêu dùng, đồng thời do cá có tập tính khá hung dữ, cũng như do cá có hình dạng đẹp nên thường được nuôi riêng trong bể kính để làm cảnh.

 
(nguồn: Website Hội Nông dân Việt Nam)

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét